Hotline: 0941068156

Thứ ba, 23/04/2024 16:04

Tin nóng

Quần thể chè Shan tuyết cổ thụ ở Sơn La được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cây nghiến Di sản - Tài sản vô giá của núi rừng Lâm Bình

Tam Kỳ (Quảng Nam): Đón Bằng công nhận Cây Di sản Việt Nam đối với quần thể 9 cây sưa cổ thụ

Cần cơ chế bảo tồn, phát huy giá trị Cây Di sản Việt Nam

Phát hiện 6.978 vụ vi phạm về môi trường trong 3 tháng đầu năm 2024

Hải Dương: Cây muồng ràng ràng 300 năm tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Thanh Oai (Hà Nội): 5 cây cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Giờ Trái đất 2024: Cả nước tiết kiệm được 428.000 kWh

Quần thể 9 cây sưa cổ thụ ở Tam Kỳ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Hải Phòng: Bồ đề và bàng cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

6 cổ thụ ở Tam Nông được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cuộc thi viết về Cây Di sản Việt Nam: Lan tỏa thông điệp bảo vệ cảnh quan, môi trường ứng phó biến đổi khí hậu

Phát động cuộc thi viết về Cây Di sản Việt Nam

Khẩn trương ứng phó cao điểm xâm nhập mặn

Cẩm Phả (Quảng Ninh): Nhiều cây cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Vĩnh Phúc: Duối cổ thụ hơn 700 tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cây Di sản - Báu vật nghìn năm tuổi giữa núi rừng Na Hang

Hàng trăm cây cổ thụ ở Lạng Sơn được công nhận quần thể Cây Di sản Việt Nam

Tuyên Quang: 2 nghiến cổ thụ hơn 1.000 năm được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Loạt hoạt động của Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam diễn ra trong tháng 3 và tháng 4 tới

Thứ ba, 23/04/2024

Phát triển mắc ca thành ngành hàng sản xuất hiệu quả

Thứ ba, 17/01/2023 14:01

TMO - Hình thành vùng sản xuất nguyên liệu mắc ca hiệu quả, bền vững gắn với các cơ sở sơ chế, chế biến; áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng, tạo sản phẩm hàng hóa đa dạng, phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thị trường, có sức cạnh tranh cao là một trong những mục tiêu quan trọng mà tỉnh Lạng Sơn hướng đến trong thời gian tới.  

Tỉnh Lạng Sơn đặt mục tiêu đến năm 2025 nâng diện tích trồng mắc ca toàn tỉnh đạt 1.480 ha, diện tích cho thu hoạch đạt 100 ha, sản lượng đạt 210 tấn hạt tươi; đến năm 2030 nâng diện tích trồng mắc ca toàn tỉnh đạt 2.930 ha, diện tích cho thu hoạch đạt 550 ha, sản lượng đạt 1.155 tấn hạt tươi; tỷ lệ sơ chế, chế biến đạt 85% trở lên. Định hướng đến năm 2050 diện tích trồng mắc ca toàn tỉnh đạt 6.830 ha, diện tích cho thu hoạch đạt 5.400 ha, sản lượng đạt 11.340 tấn hạt tươi.

Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất ngành hàng mắc ca, UBND tỉnh yêu cầu các đơn vị liên quan định hướng phát triển vùng trồng thông qua việc rà soát quỹ đất có thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp để mở rộng phát triển diện tích mắc ca, yêu cầu điều kiện trồng: độ cao từ 50 m - 1.200 m so với mực nước biển; lượng mưa bình quân năm 1.600 mm - 2.500 mm; đất đai có độ dày từ 50 cm trở lên, thành phần cơ giới nhẹ, khả năng thoát nước tốt, giàu hữu cơ, độ pH(kcl) = 4 - 6,5; địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc không quá 250... 

Trên đất nông nghiệp: trồng thuần loài thay thế các diện tích cây dài ngày, vườn tạp kém hiệu quả; trồng xen mắc ca trong vườn cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lâu năm đảm bảo canh tác bền vững, nâng cao giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích. Trên đất lâm nghiệp: trồng trên diện tích đất đang sản xuất nông nghiệp thuộc quy hoạch lâm nghiệp nhằm phục hồi, tăng độ che phủ rừng, trồng trên diện tích đất lâm nghiệp sau khai thác rừng trồng.

Tỉnh Lạng Sơn đặt mục tiêu đến năm 2025 nâng diện tích trồng mắc ca toàn tỉnh đạt 1.480 ha, diện tích cho thu hoạch đạt 100 ha (Ảnh minh họa) 

Từ đó, triển khai kế hoạch phát triển vùng trồng qua việc mở rộng, phát triển diện tích trồng đáp ứng nguyên liệu cho các cơ sở chế biến, tập trung tại các huyện: Tràng Định, Văn Lãng, Cao Lộc, Lộc Bình, Bình Gia (các huyện Văn Quan, Bắc Sơn, Chi Lăng, Hữu Lũng, Đình Lập và thành phố Lạng Sơn phát triển với diện tích phù hợp). Phấn đấu đến năm 2025 diện tích đạt 1.480 ha, trong đó trồng thuần 1.250 ha, trồng xen 230 ha; đến năm 2030 diện tích đạt 2.930 ha, trong đó trồng thuần 2.400 ha, trồng xen 530 ha. Định hướng đến 2050 diện tích đạt 6.830 ha, trong đó trồng thuần 5.100 ha, trồng xen 1.730 ha. 

Địa phương này cũng xác định bộ giống mắc ca chủ lực trên địa bàn tỉnh gồm: OC, A38, 246, QN1, 695.... tiếp tục phối hợp với các Viện nghiên cứu, Hiệp hội Mắc ca Việt Nam và các doanh nghiệp nghiên cứu các dòng mắc ca mới, triển vọng phù hợp với từng vùng sinh thái cho năng suất cao, chất lượng tốt. Nhu cầu cây giống mắc ca phục vụ trồng mới giai đoạn 2021 - 2030 xác định cần khoảng gần 1,5 triệu cây.

Xây dựng và ban hành quy trình kỹ thuật sản xuất giống mắc ca để chuyển giao cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống mắc ca khỏe, sạch bệnh; đồng thời đánh giá sự phù hợp của một số dòng mắc ca ghép đã và đang được trồng trên từng vùng sinh thái thuộc đất lâm nghiệp, đất ngoài quy hoạch lâm nghiệp để định hướng sản xuất trên địa bàn tỉnh. Quản lý chặt chẽ các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống mắc ca, đảm bảo diện tích mắc ca trồng mới đều được trồng bằng cây giống ghép từ các dòng có năng suất, chất lượng cao, thích hợp với từng tiểu vùng sinh thái.

UBND tỉnh chỉ đạo ngành chức năng xây dựng, ban hành quy trình kỹ thuật sản xuất giống mắc ca chuyển giao cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh 

Phát triển chế biến mắc ca được nhấn mạnh triển khai thông qua việc xây dựng cơ sở chế biến gắn với vùng nguyên liệu, quy mô công suất chế biến phù hợp với khả năng đáp ứng của vùng sản xuất nguyên liệu, ưu tiên công nghệ chế biến sâu, hiện đại với những sản phẩm cao cấp, có giá trị cao, với mục tiêu đến năm 2025 duy trì số cơ sở sơ chế hiện có là 03 cơ sở, nâng công suất sơ chế, chế biến nguyên liệu lên trên 200 tấn hạt tươi/năm; sản phẩm sau chế biến chủ yếu là quả khô sấy nứt, nhân hạt sấy khô, tinh dầu, …cung cấp cho thị trường trong nước.

Đến năm 2030, phát triển các cơ sở sơ chế nâng tổng số cơ sở sơ chế lên trên 05 cơ sở; nâng cao công suất sơ chế, chế biến nguyên liệu lên trên 1.100 tấn hạt tươi/năm; sản phẩm sau chế biến chủ yếu là quả khô sấy nứt, nhân hạt sấy khô, tinh dầu, … cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Đến năm 2050, tiếp tục phát triển các cơ sở sơ chế và cơ sở chế biến theo sản lượng thực tế, đảm bảo đáp ứng được cho việc sơ chế và chế biến đối với sản phẩm mắc ca trên địa bàn tỉnh; công suất sơ chế, chế biến nguyên liệu đạt trên 11.000 tấn hạt tươi/năm; sản phẩm sau chế biến chủ yếu là quả khô sấy nứt, nhân hạt sấy khô, tinh dầu, bánh, kẹo… cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu.

Bên cạnh đó, hỗ trợ xây dựng và phát triển các chuỗi liên kết từ khâu cung cấp giống, trồng, chăm sóc đến thu hoạch, chế biến và tiêu thụ sản phẩm mắc ca hiệu quả và bền vững. Đến năm 2050, kêu gọi thu hút đầu tư xây dựng nhà máy chế biến công nghệ cao chế biến các sản phẩm từ mắc ca có giá trị gia tăng cao (tinh dầu, bánh, kẹo ...) với công suất chế biến đạt trên 5.000 tấn hạt tươi/năm. 2.5. Xây dựng thương hiệu, quảng bá xúc tiến thương mại sản phẩm. Lồng ghép các chương trình, kế hoạch tổ chức hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm và xúc tiến thương mại tiêu thụ sản phẩm mắc ca Lạng Sơn. Lồng ghép các chương trình xây dựng các sản phẩm OCOP gắn với chỉ dẫn địa lý của địa phương về sản phẩm mắc ca.

Thời gian tới, UBND tỉnh chỉ đạo các Sở, ngành chức năng tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất, thu mua, chế biến, xuất khẩu các sản phẩm mắc ca; đồng thời, huy động nguồn vốn trong dân để phát triển sản xuất. Kêu gọi, thu hút doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, thị trường tiêu thụ đầu tư vào sản xuất, thu mua, chế biến, xuất khẩu các sản phẩm mắc ca. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư mở rộng sản xuất, chế biến mắc ca tuân thủ theo các quy định hiện hành của nhà nước thông qua Luật Đầu tư.

Tăng cường công tác quản lý chất lượng giống mắc ca. Thực hiện công tác điều tra, khảo sát, lựa chọn giống tốt phù với từng vùng để khuyến khích phát triển đa dạng nguồn giống tốt trong sản xuất; nghiên cứu, xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất giống, cây ghép nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn giống tốt cho sản xuất; điều tra khảo sát bình tuyển cây đầu dòng. Nâng cao năng lực sản xuất giống của các cơ sở sản xuất giống có quy mô lớn: nhà nước hỗ trợ đầu tư nguồn vốn trong công tác nghiên cứu khoa học, nhập khẩu, khảo nghiệm, chọn tạo sản xuất thử các giống mới. Mở rộng quan hệ hợp tác, đầu tư nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong cả lĩnh vực giống và kỹ thuật canh tác... 

 

 

Bùi Nam

 

 

Thích và chia sẻ bài viết:

Bình luận

    Bình luận của bạn

    cmt
      Web đang chạy kỹ thuật
      Zalo phone Hotline