Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 24/11/2024 06:11
Thứ ba, 19/12/2023 08:12
TMO - Những năm qua, ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực thủy lợi, phòng, chống thiên tai được áp dụng nhằm giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đối với dân sinh và sản xuất nông nghiệp…
Biến đổi khí hậu, khai thác nước thượng nguồn và phát triển kinh tế nội tại đang khiến các vấn đề thiên tai, ô nhiễm môi trường tại Việt Nam ngày càng gia tăng, khó lường hơn. Những thách thức này đòi hỏi lĩnh vực thủy lợi, phòng chống thiên tai cần đẩy nhanh áp dụng khoa học-công nghệ nhằm giảm đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực đó đối với dân sinh và sản xuất nông nghiệp.
Cả nước có 86.200 công trình thủy lợi, trong đó 6.750 hồ chứa, 16.573 công trình cấp nước nông thôn tập trung… Các công trình thủy lợi này bảo đảm phục vụ khoảng 4,28 triệu ha đất nông nghiệp, cấp nước cho khoảng 686.600ha nuôi trồng thủy sản, 6,5 tỷ m3 cho sinh hoạt, công nghiệp, ngăn mặn cho 870.000ha, cải tạo chua phèn cho 1,6 triệu ha… Các công trình thủy lợi này bảo đảm phục vụ khoảng 4,28 triệu ha đất nông nghiệp, cấp nước cho khoảng 686.600 ha nuôi trồng thủy sản, 6,5 tỷ m3 cho sinh hoạt, công nghiệp, ngăn mặn cho 870.000 ha, cải tạo chua phèn cho 1,6 triệu ha…
Tuy nhiên, còn nhiều thách thức nhằm nâng cao hiệu quả vận hành công trình thủy lợi và công tác phòng chống thiên tai. Tại khu vực miền núi phía Bắc vấn đề lũ quét, sạt lở đất, nước sạch cho người dân; đồng bằng sông Hồng là vấn đề an ninh nguồn nước, ô nhiễm môi trường nước trong các hệ thống thủy lợi; khu vực miền trung xói lở bờ sông, biển, bồi lấp cửa sông, hạn, mặn, lũ quét, sạt lở đất; vùng đồng bằng sông Cửu Long đó là vấn đề thiếu hụt phù sa, ô nhiễm nguồn nước, xâm nhập mặn, xói lở bờ sông, biển, sụt lún, ngập úng…
Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam cho biết: Giai đoạn 2013-2023, nhiều kết quả trong việc nghiên cứu ứng dụng đối với lĩnh vực thủy lợi, phòng chống thiên tai được triển khai trên địa bàn cả nước như tại vùng hạ du sông Hồng đã nghiên cứu, đề xuất 10 vị trí công trình điều tiết với giải pháp phù hợp vừa bảo đảm khai thác hiệu quả nhất nguồn nước về mùa khô; đồng thời gần như không ảnh hưởng đến khả năng thoát lũ, bảo đảm giao thông đường thủy; giải pháp điều hòa, phân bổ nguồn nước liên vùng, liên lưu vực sông khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.
Ðối với vùng đồng bằng sông Cửu Long các nghiên cứu đã tiếp cận tổng thể, toàn diện những vấn đề như: Khai thác thượng nguồn, khí hậu cực đoan, biến đổi hình thái lòng dẫn và hạ thấp mực nước. Từ đó đề xuất định hướng quy hoạch tuyến sông và các giải pháp chỉnh trị, bảo vệ bờ, chuyển đổi sản xuất. Ngoài ra, cũng đã xây dựng bản đồ ngập lụt hạ du, ngập lụt nước dâng do siêu bão ở một số tỉnh như: Thanh Hóa, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Các công nghệ ngăn sông như: Ðập trụ đỡ, đập xả lan, cống lắp ghép đã được nghiên cứu, ngày càng hoàn thiện hơn và ứng dụng xây dựng nhiều công trình ngăn sông trên cả nước...
Ứng dụng khoa học công nghệ góp phần nâng cao hiệu quả vận hành các công trình thủy lợi, năng lực phòng chống thiên tai.
Bên cạnh đó là các giải pháp công nghệ tính toán kiểm đếm nguồn nước, công nghệ lưu giữ nước phục vụ chống hạn cho các vùng trọng điểm ở Tây Nguyên và Nam Trung Bộ; công nghệ, quy trình tưới tiên tiến, tiết kiệm nước và ứng dụng chuyển đổi số nhằm xây dựng các quy trình tưới thông minh, chính xác cho một số cây trồng chủ lực; nghiên cứu thành công chế độ tưới tiết kiệm nước phục vụ hệ thống thâm canh lúa cải tiến.
Nghiên cứu thành công chế độ tưới tiết kiệm nước phục vụ hệ thống thâm canh lúa cải tiến. Kết quả cho thấy, tiết kiệm 20% lượng nước tưới, tăng năng suất từ 5 đến 11%, giảm thiểu phát thải khí nhà kính trên ruộng đồng. Các dạng cửa van lớn, thiết bị, máy bơm đặc thù cho từng vùng phục vụ chống úng, hạn, cấp nước sinh hoạt, sản xuất cho vùng cao, khan hiếm nguồn nước… cũng được áp dụng. Mặt khác, nguồn nhân lực bước đầu bảo đảm năng lực chủ trì các nhiệm vụ được giao, có nhiều đóng góp thiết thực trong lĩnh vực thủy lợi, phòng, chống thiên tai.
Nhằm hạn chế những thiệt hại do thiên tai và tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai, thời gian qua các cơ quan chức năng đã và đang ứng dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực này. Trong đó có việc, sử dụng flycam thu thập cơ sở dữ liệu, xây dựng bản đồ hệ thống đê, theo dõi các vùng hành lang bảo vệ đê, bãi, lòng sông; các vị trí sạt lở bờ sông, mái đê; các trọng điểm xung yếu đê, sự cố đê do lũ, bão Ứng dụng hệ thống cơ sở dữ liệu WebGIS về đê điều ở 21 địa phương có đê từ cấp ba trở lên, cung cấp thông tin về các tuyến đê, công trình kè, cống, kho bãi vật tư, nhất là các trọng điểm xung yếu. Phần mềm theo dõi mực nước theo thời gian thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tuyến đê, các trạm khí tượng, mực nước. Sử dụng công nghệ radar đất, đa cực phát hiện ẩn họa, khe nứt và vùng thấm trong thân đê; lập bản đồ phân vùng nguy cơ lũ quét, sạt lở đất với các tỷ lệ ngày càng chi tiết…
Tuy nhiên, hiện nay nhiều công trình thủy lợi xuống cấp do xây dựng từ lâu; nhiều công trình hiệu quả hoạt động thấp; rủi ro mất an toàn đập, hồ chứa nước có xu hướng gia tăng. Mặt khác, chưa có cơ chế, chính sách áp dụng khoa học công nghệ mới trong xây dựng các công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, biển; chưa có hệ thống theo dõi, giám sát sạt lở bờ sông, biển tại các địa điểm thường xuyên xảy ra sạt lở; hệ thống cơ sở dữ liệu phân tán, chưa tích chung vào một cơ sở dữ liệu phòng, chống thiên tai; dữ liệu nền cho các phần mềm còn thiếu dẫn đến độ chính xác và kết quả chưa cao.
Trước thực tế trên, nhằm đẩy mạnh những thành tựu của khoa học công nghệ trong lĩnh vực trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị các cơ quan chuyên môn, nhà khoa học cần xác định phương pháp tiếp cận và những nội dung cần thực hiện để giải quyết những vấn đề về nghiên cứu ứng dụng, làm chủ công nghệ tiên tiến, công nghệ số trong đánh giá, nhận dạng, dự báo, cảnh báo diễn biến nguồn nước, chất lượng nước; vấn đề hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, lũ, ngập úng, bồi lắng, xói lở bờ sông biển. Nghiên cứu, ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến trong khảo sát, thiết kế, vật liệu mới, thiết bị, xây dựng và quản lý an toàn hồ chứa, đập, đê sông, biển và công trình phòng tránh giảm nhẹ thiên tai, phát triển nông thôn.
Ðồng thời, nghiên cứu, ứng dụng, phát triển các công nghệ mới, tiên tiến, công nghệ số trong điều tiết nguồn nước; giám sát bảo đảm an toàn hồ đập, tăng tuổi thọ công trình, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý vận hành công trình thủy lợi, phòng chống thiên tai; nghiên cứu phát triển công nghệ, thiết bị và giải pháp thủy lợi tiên tiến phục vụ cây trồng chủ lực, nuôi trồng thủy sản chủ lực, chuyển đổi đất sản xuất, ứng phó với biến đổi khí hậu; đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực thủy lợi, phòng chống thiên tai.Trong đó tập trung vào nghiên cứu tích hợp các công cụ, hệ thống, thiết bị tạo ra những sản phẩm hoàn chỉnh, đồng bộ, sử dụng trí tuệ nhân tạo nâng cao độ chính xác trong đánh giá, dự báo, cảnh báo phục vụ công tác thủy lợi, phòng chống thiên tai.
Đức Minh
Bình luận