Hotline: 0941068156
Thứ sáu, 12/12/2025 11:12
Thứ sáu, 12/12/2025 06:12
TMO - Trước yêu cầu ngày càng cao của thị trường, tỉnh Lào Cai tập trung hoàn thiện hệ thống mã số vùng trồng để kiểm soát chất lượng và gia tăng giá trị rừng nguyên liệu. Việc tăng cường cấp mã số không chỉ đáp ứng tiêu chuẩn sản xuất mà còn góp phần bảo vệ tài nguyên rừng và thúc đẩy sinh kế cho người dân lâm nghiệp.
Lào Cai đang tập trung hoàn thiện hệ thống cấp mã số vùng trồng nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường trong và ngoài nước đối với sản phẩm lâm nghiệp. Việc cấp mã số không chỉ giúp truy xuất nguồn gốc rừng nguyên liệu mà còn tạo hành lang quản lý minh bạch, nâng cao uy tín sản phẩm gỗ của địa phương.
Hiện nhiều vùng trồng đã chủ động chuyển đổi phương thức quản lý, tuân thủ quy trình kỹ thuật và đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định để đủ điều kiện cấp mã số. Các cơ quan chuyên môn của tỉnh cũng tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, hướng dẫn người dân lập hồ sơ, hoàn thiện dữ liệu vùng trồng.
Đây được xem là bước đi cần thiết trong bối cảnh ngành lâm nghiệp đang chuyển mạnh sang mô hình phát triển bền vững, chú trọng chất lượng hơn số lượng. Khi mã số vùng trồng được mở rộng, Lào Cai sẽ có cơ hội lớn trong thu hút doanh nghiệp chế biến, nâng cao giá trị chuỗi sản phẩm gỗ và đảm bảo sinh kế ổn định cho cộng đồng trồng rừng.
Theo Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lào Cai, toàn tỉnh đã cấp gần 4.200 ha mã số vùng trồng với 5.182 mã tại ba địa phương Yên Bình, Bảo Ái và phường Văn Phú. Trong đó, xã Yên Bình chiếm hơn 1.845 ha với 2.391 mã số; Bảo Ái 2.278 ha với 2.672 mã số; phường Văn Phú hơn 73 ha với 119 mã số. Năm 2025, tỉnh tiếp tục đặt mục tiêu cấp mã số vùng trồng cho thêm khoảng 2.000 ha tại các xã Mậu A, Quy Mông, Khánh Hòa và Phúc Lợi. Lãnh đạo Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lào Cai cho biết, mã số vùng trồng không chỉ gia tăng giá trị sản phẩm mà còn đảm bảo tính minh bạch, đáp ứng yêu cầu của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Đặc biệt, quy định chống mất rừng EUDR của Liên minh châu Âu yêu cầu truy xuất nguồn gốc gỗ trở thành điều kiện bắt buộc đối với hàng xuất khẩu. Nhờ hệ thống iTwood, chủ rừng có thể dễ dàng đăng ký và quản lý lô rừng trên nền tảng số, tạo thuận lợi cho cả người dân và cơ quan quản lý. Theo chia sẻ của người dân ở thôn Đá Chông, xã Yên Bình, ứng dụng iTwood đã giúp gia đình họ quản lý 4 ha rừng trồng.
Trên điện thoại toàn bộ thông tin từ diện tích, vị trí, năm trồng, giống cây, phương thức chăm sóc đến chứng chỉ rừng đều được cập nhật đầy đủ, ngày trước còn bỡ ngỡ, nhưng sau khi được cán bộ hướng dẫn, người dân cập nhật rất dễ. Có mã số vùng trồng, thậm chí có thể bán gỗ trực tiếp qua ứng dụng mà không cần qua trung gian. Mã số vùng trồng không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp cho hộ trồng rừng mà còn giúp doanh nghiệp chế biến yên tâm đầu tư mở rộng quy mô, góp phần hình thành chuỗi giá trị lâm sản bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành lâm nghiệp địa phương.
Tại xã Mậu A, nơi có hơn 9.900 ha rừng với cây quế là chủ lực, chính quyền địa phương xác định việc mở rộng diện tích cấp mã số vùng trồng là nhiệm vụ trọng tâm năm 2025. Xã hiện đang hoàn thiện hồ sơ cho khoảng 500 ha. Địa phương sẽ xây dựng chiến lược xúc tiến thương mại, cập nhật thường xuyên danh sách lô rừng đã được cấp mã số để phục vụ truy xuất nguồn gốc và nâng cao giá trị cây quế.

Mã số vùng trồng góp phần gia tăng giá trị rừng nguyên liệu. (Ảnh: TN).
Mục tiêu cuối cùng là giúp người dân tăng thu nhập từ rừng, tạo đầu ra ổn định và bền vững cho sản phẩm quế. Cùng với chính quyền, lực lượng cán bộ thôn, bản đang đóng vai trò cầu nối quan trọng trong việc hỗ trợ người dân hoàn thiện thủ tục. Tuy nhiên, quá trình mở rộng mã số vùng trồng trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều thách thức.
Vấn đề lớn nhất là thực trạng đất rừng, khi chỉ hơn 30% diện tích được cấp mã số có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhiều diện tích do lâm trường bàn giao lại nhưng chưa được phân giao rõ ràng, gây khó khăn trong xác minh nguồn gốc lô rừng.
Một số vùng nguyên liệu chưa có tính tập trung do người dân vẫn trồng tự phát, lựa chọn giống và chu kỳ sản xuất không đồng nhất. Cơ sở dữ liệu về rừng được đồng bộ từ nhiều nguồn như FRMS, bản đồ giao đất, bản đồ viễn thám nên có sự chênh lệch nhất định, làm chậm quá trình xác minh thông tin.
Tại các xã vùng sâu, hạ tầng internet và kỹ năng công nghệ thông tin của người dân còn hạn chế, khiến việc số hóa hồ sơ ban đầu gặp khó khăn. Trước thực tế đó, tỉnh Lào Cai đã đề ra phương hướng cụ thể nhằm bảo đảm tiến độ mở rộng mã số vùng trồng. Chi cục Kiểm lâm bám sát địa phương, chỉ đạo các Hạt Kiểm lâm quản lý chặt chẽ mã đã cấp, tăng cường tuyên truyền để người dân nhận thức rõ lợi ích.
Các xã phối hợp cập nhật thông tin đất đai, hỗ trợ người dân kê khai hồ sơ, chuyển đổi từ hồ sơ giấy sang hồ sơ số. Hồ sơ đạt yêu cầu sẽ được tổng hợp trình Chi cục Kiểm lâm xem xét, cấp mã theo Thông tư 26/2025/TT-BNNMT có hiệu lực từ ngày 1/7/2025. Mã số vùng trồng đang trở thành công cụ quan trọng giúp Lào Cai đổi mới phương thức quản lý lâm nghiệp, thích ứng yêu cầu thị trường và thúc đẩy kinh tế lâm nghiệp phát triển hiện đại, bền vững.
Khi hệ thống dữ liệu được chuẩn hóa, rừng trồng quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế, sản phẩm lâm sản của tỉnh có cơ hội cạnh tranh cao hơn và vươn mạnh ra thị trường xuất khẩu. Tỉnh Lào Cai đặt mục tiêu mở rộng mã số vùng trồng lên 10.000 ha trong thời gian tới, góp phần đưa kinh tế lâm nghiệp ngày càng phát triển.
Việc phát triển rừng nguyên liệu theo hướng bền vững cũng tạo nền tảng cho sinh kế ổn định của người dân, bảo vệ hệ sinh thái và giảm thiểu rủi ro môi trường. Khi các doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ trồng rừng cùng tham gia vào hệ thống quản lý hiện đại này, chuỗi giá trị lâm nghiệp sẽ trở nên hiệu quả hơn, gia tăng giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Có thể khẳng định, nếu tiếp tục duy trì quyết tâm và đồng bộ giải pháp, Lào Cai sẽ xây dựng được vùng nguyên liệu lâm nghiệp bền vững, hiện đại, tạo động lực quan trọng cho tăng trưởng xanh trong những năm tới.
Khánh An
Bình luận