Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 15/06/2025 00:06
Thứ bảy, 14/06/2025 05:06
TMO - Với lợi thế về điều kiện tự nhiên và tập quán sản xuất của người dân, tỉnh Sóc Trăng đang tập trung phát triển chăn nuôi bò theo hướng bền vững, gắn với cải thiện sinh kế và bảo vệ môi trường. Nhiều mô hình nuôi bò vỗ béo, bò sinh sản đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, góp phần nâng cao thu nhập cho nông hộ, đặc biệt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Để thúc đẩy ngành chăn nuôi bò phát triển ổn định, tỉnh Sóc Trăng chú trọng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, hỗ trợ con giống chất lượng và xây dựng chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm.
Ngành nông nghiệp Sóc Trăng đã xác định chăn nuôi bò là một trong những hướng đi quan trọng để phát triển kinh tế nông thôn. Nhờ sự hỗ trợ từ các chương trình khuyến nông, nhiều hộ dân đã tiếp cận được con giống chất lượng, kỹ thuật chăm sóc và mô hình chăn nuôi hiệu quả.
Một số địa phương còn hình thành các tổ hợp tác, nhóm liên kết trong nuôi bò vỗ béo và sinh sản, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm. Định hướng sắp tới là phát triển đàn bò gắn với môi trường, đảm bảo đầu ra ổn định và nâng cao thu nhập bền vững cho người dân. Để làm được điều đó, tỉnh đã triển khai thực hiện Dự án Phát triển chăn nuôi bò trên địa bàn tỉnh. Thông qua dự án, số lượng bò tăng lên đáng kể đồng nghĩa tăng thu nhập cho người chăn nuôi, giúp gia đình có cuộc sống ổn định hơn.
Thực hiện Dự án Phát triển chăn nuôi bò trên địa bàn tỉnh, đàn bò toàn tỉnh Sóc Trăng đều tăng về số lượng, chất lượng, bình quân mỗi năm đàn bò tăng từ 1,11 - 2%. Cụ thể, số lượng bò của tỉnh hiện có hơn 54.000 con, trong đó bò thịt hơn 48.357 con, bò sữa hơn 5.718 con; sản lượng bò thịt hằng năm cung ứng ra thị trường đạt hơn 2.200 tấn, sản lượng sữa bò tươi cung ứng cho các công ty chế biến sữa hơn 13.860 tấn.
Theo đó, để hỗ trợ hộ dân tham gia thực hiện dự án hiệu quả, tỉnh đã thành lập Ban Quản lý Dự án Phát triển chăn nuôi bò để triển khai các hoạt động tuyên truyền, tập huấn kỹ thuật, cùng hàng loạt các hỗ trợ khác do dự án triển khai.
Tính riêng trong năm 2024, Ban Quản lý dự án đã tổ chức cấp phát gần 2.500 tài liệu tuyên truyền, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi bò thịt, bò sữa và nâng cao năng lực cho các tổ hợp tác, hợp tác xã chăn nuôi bò trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, để tăng tỷ lệ bò cái, cơ quan liên quan đã tổ chức gieo hơn 11.100 liều tinh bò nhân tạo cho hơn 48.300 con, tỷ lệ bò đậu thai sau gieo tinh hơn 71%; hỗ trợ hơn 3.000 liều tinh bò nhân tạo, gieo cho hơn 1.600 con bò ở các địa phương trên địa bàn tỉnh.
Đồng thời, lai tạo giống bò địa phương với bò có kích cỡ to lớn, nhiều thịt như giống bò Zebu, Red Sindhi; hỗ trợ hơn 8.000 liều tinh bò thịt cao sản phối cho hơn 4.000 con bò thịt, tạo ra giống bò lai Zebu có trọng lượng hơn 250kg con bò lai hướng thịt, nâng cao trọng lượng bò thịt khi xuất bán. Thực hiện bấm tai 5.000 con bò cái sinh sản và bò hậu bị trên 12 tháng tuổi đưa vào quản lý giống; hỗ trợ 5.000 bộ thẻ tai, 940 sổ quản lý chăn nuôi bò thịt đến hộ nuôi.
Để đàn bò của hộ tham gia dự án phát triển tốt, ổn định về sức khỏe sinh sản, tạo lượng sữa bò tươi luôn ổn định, Ban Quản lý dự án đã hỗ trợ hàng trăm kílôgam giống cỏ sả trồng tại các vùng chăn nuôi bò, đến nay diện tích đồng cỏ là 2.100ha, cung cấp 60% lượng thức ăn thô xanh cho đàn bò; hỗ trợ hạt giống bắp để hộ chăn nuôi trồng bắp bán trái tăng thêm thu nhập và tận dụng cây bắp làm thức ăn cho bò, diện tích 20ha.
Sóc Trăng triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ người dân nuôi bò theo hướng quy mô lớn. (Ảnh: XT).
Bên cạnh đó, hỗ trợ xây dựng 100 mô hình xử lý chất thải rắn từ chăn nuôi bò tại các hộ chăn nuôi nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường; hỗ trợ xây dựng 5 mô hình chăn nuôi bò VietGAP, sau thực hiện mô hình các hộ chăn nuôi bò đều đã được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP về chăn nuôi bò thịt. Hỗ trợ hộ tham gia dự án thực hiện vỗ béo hơn 350 bò thịt, nhằm tăng trọng lượng, chất lượng bò thịt, giúp hộ chăn nuôi tăng thêm thu nhập sau xuất bán bò.
Về bò sữa, Ban Quản lý dự án đã tổ chức thực hiện, duy trì 42 mô hình chăn nuôi bò sữa tiên tiến, kèm theo đó là hỗ trợ hộ thực hiện mô hình sửa chữa chuồng chăn nuôi, máy vắt sữa, máy băm cỏ, hố chứa phân bò; hỗ trợ các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn, cải thiện chất lượng cỏ, cải thiện dinh dưỡng cho đàn bò; từ đó, cải tiến điểm thể trạng và nâng cao hiệu quả sinh sản, khai thác sữa.
Để bảo vệ tốt sức khỏe đàn bò sữa, Ban Quản lý dự án còn phối hợp các trạm chăn nuôi và thú y cơ sở ở các địa phương vùng dự án, hướng dẫn hộ chăn nuôi kiểm soát chặt chẽ một số bệnh truyền nhiễm trên bò như: viêm da nổi cục, lở mồm long móng, tụ huyết trùng… Lãnh đạo Chi cục Chăn nuôi và Thú y cho biết, mục tiêu tới của dự án là phát triển đàn bò thịt của tỉnh 55.000 con; sản lượng thịt hơn 3.000 tấn/năm, giải quyết việc làm cho 10.000 lao động. Số lượng đàn bò sữa 7.000 con, sản lượng sữa tươi 15.000 tấn/năm, giải quyết việc làm cho 5.000 lao động.
Để đạt được mục tiêu trên, Ban Quản lý dự án sẽ tiếp tục cải thiện, nâng cao năng suất, chất lượng giống bò thịt, bò sữa bằng phương pháp gieo tinh nhân tạo từ nguồn tinh bò nhập ngoại. Chuyển đổi phương thức chăn nuôi từ 4 - 5 con/hộ lên 5 - 6 con/hộ, khuyến khích phát triển chăn nuôi bò theo hướng gia trại, trang trại. Tiếp tục nâng cao nguồn nhân lực gieo tinh nhân tạo, đặc biệt gắn quản lý nhà nước vào chăn nuôi…
Sau thành công của Dự án Phát triển chăn nuôi bò thịt giai đoạn 2017 - 2020, định hướng đến năm 2025 và Dự án Phát triển chăn nuôi bò sữa giai đoạn 2013 - 2020, tỉnh Sóc Trăng tiếp tục triển khai Dự án Phát triển chăn nuôi bò trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030.
Nhờ xây dựng kế hoạch triển khai bài bản và lựa chọn đúng đối tượng thụ hưởng, các hoạt động do Dự án triển khai hỗ trợ đã tạo thêm động lực để các hộ tham gia duy trì và phát triển nghề, từng bước chuyển đổi từ hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung, quy mô lớn để cải thiện kinh tế gia đình. Phát triển đàn bò bền vững không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho nông dân Sóc Trăng mà còn góp phần tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng hiệu quả, thân thiện môi trường. Đây là hướng đi phù hợp với điều kiện địa phương và định hướng phát triển nông nghiệp hiện đại.
Mai Hương
Bình luận