Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 27/07/2025 00:07
Chủ nhật, 15/06/2025 04:06
TMO - Thời gian qua, tỉnh Phú Yên đã liên tục hoàn thiện cơ chế quản lý, kiểm soát chất lượng con giống, vệ sinh môi trường nuôi cũng như áp dụng khoa học - công nghệ, góp phần khắc phục những tồn tại, khó khăn, tập trung phát triển vùng nuôi thuỷ sản lồng bè tại khu vực thị xã Sông Cầu.
Bên cạnh đó, các ngành chức năng cùng chính quyền địa phương tổ chức rà soát số lồng, mật độ nuôi, kiểm soát chất lượng con giống, thức ăn cũng như xử lý ô nhiễm nguồn nước, hướng đến sản xuất an toàn, bền vững.
Cùng với những biện pháp về kỹ thuật, Phú Yên cũng chú trọng hoàn thiện cơ chế chính sách, hướng dẫn ngư dân tuân thủ các quy định về bảo vệ tài nguyên, minh bạch trong sản xuất. Việc liên kết sản xuất, tìm kiếm thị trường, đăng kí sản phẩm theo hướng OCOP cũng được đẩy mạnh, giúp thủy sản lồng bè tại thị xã Sông Cầu thêm sức cạnh tranh, hướng đến những sản phẩm chất lượng, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng.
Hiện tại, các mô hình nuôi tôm hùm, ghẹ, cá các loại… đang được nhân rộng, hướng đến đa dạng đối tượng nuôi, phù hợp với nhu cầu thị trường. Thông qua những giải pháp đồng bộ, Phú Yên phấn đấu đưa nuôi thủy sản lồng bè tại Sông Cầu phát triển một cách bền vững, đóng góp tích cực vào thu nhập của cộng đồng cư dân tại khu vực này. TX Sông Cầu có đường bờ biển dài trên 80km, với nhiều đầm, vịnh nước sâu, kín gió rất thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS), đặc biệt là nuôi tôm hùm lồng bè.
Thời gian qua, NTTS lồng bè ở địa phương tiếp tục phát triển và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân, trong đó tôm hùm vẫn là một trong những vật nuôi chủ lực của thị xã, với khoảng 4.000 hộ dân, trên 10.000 lao động tham gia. Năm 2024, sản lượng tôm hùm ở TX Sông Cầu đạt gần 2.200 tấn, năng suất bình quân khoảng 33,5kg/lồng, giá trị thu được trên đơn vị mặt nước NTTS khoảng 1,55 tỉ đồng/ha/năm.
Tuy nhiên, những tồn tại, hạn chế hiện nay trong NTTS cũng như những khó khăn, thách thức mà TX Sông Cầu phải đối mặt trong thời gian tới là rất lớn. Địa phương này đang triển khai những giải pháp phù hợp nhằm kịp thời giải quyết những tồn tại, khó khăn, hướng tới NTTS theo hướng bền vững.
TX Sông Cầu đang hình thành và phát triển 6 khu vực nuôi biển xa bờ với tổng diện tích 1.380ha, trong đó khu vực phía ngoài đầm Cù Mông 4 điểm và khu vực phía ngoài vịnh Xuân Đài 2 điểm. Tổng thể tích lồng nuôi cá biển ở 6 khu vực này khoảng 251.200m3 (khoảng 200 lồng công nghiệp); sắp xếp 2.070 giàn bè nuôi nhuyễn thể, trồng rong biển, với diện tích khoảng 200m2/giàn, bè; thời gian thực hiện từ năm 2025-2030.
Theo người dân xã Xuân Thịnh (TX Sông Cầu) cho hay, hiện nay, đa số lồng bè nuôi thủy sản ở TX Sông Cầu chủ yếu làm bằng vật liệu truyền thống như gỗ, tre, phuy nhựa… chưa thích ứng với sóng to gió lớn khi xảy ra thiên tai. Người nuôi thủy sản cũng rất muốn chuyển đổi từ lồng bè truyền thống sang lồng nuôi bằng vật liệu mới HDPE, nuôi theo hướng công nghiệp, nhưng giá thành đầu tư rất cao.
Đối với con giống, đặc biệt là tôm hùm giống, người nuôi vẫn biết mua con giống trôi nổi trên thị trường thì chất lượng không đảm bảo, nhưng giá lại rẻ gấp nhiều lần so với con giống có giấy tờ đầy đủ…Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường, kết quả kiểm đếm, đến tháng 6/2024, tổng diện tích NTTS lồng bè ở TX Sông Cầu khoảng 4.400ha (đầm Cù Mông hơn 1.020ha, vịnh Xuân Đài 3.380ha), số lồng nuôi khoảng 134.600 lồng (ương tôm hùm giống 390 lồng, nuôi tôm hùm thương phẩm 129.320 lồng, nuôi cá 4.890 lồng).
Thị xã Sông Cầu đẩy mạnh NTTS lồng bè theo hướng bền vững, hiệu quả.
Thời gian qua, địa phương có nhiều nỗ lực trong công tác quản lý, sắp xếp, giải tỏa lồng bè NTTS không theo quy hoạch, tuy nhiên việc sắp xếp, giải tỏa chưa đạt hiệu quả như kế hoạch đề ra…Với mục tiêu phát triển NTTS theo hướng bền vững, UBND TX Sông Cầu đã xây dựng và gắn trách nhiệm cụ thể từ chính quyền các cấp đến người dân trong việc thực hiện đúng quy định pháp luật, nhất là thực hiện nghiêm chủ trương không để phát sinh số lượng lồng bè NTTS mới, đồng thời xử lý, giải tỏa, sắp xếp lại các vùng nuôi tại vịnh Xuân Đài và đầm Cù Mông.
Địa phương kiên quyết xử lý nghiêm các vi phạm đối với việc đóng mới lồng, bè, phát sinh thả giống nuôi mới (kể cả bè nuôi hàu, vẹm, đồng đen, rớ khai thác thủy sản) không đúng quy định trên đầm Cù Mông và vịnh Xuân Đài. Sông Cầu cũng đang lập phương án sắp xếp, xử lý lồng bè NTTS và giải tỏa triệt để lồng, bè nuôi hàu, vẹm trong năm 2025.
Định hướng phát triển lồng bè NTTS thời gian tới, Lãnh đạo UBND TX Sông Cầu đưa ra một số giải pháp như triển khai sắp xếp, giao khu vực biển, mặt nước để NTTS lồng bè tại các vùng nuôi, tiến tới chấm dứt tình trạng NTTS không phép, trái phép trên đầm, vịnh. Địa phương đang hình thành vùng nuôi biển xa bờ với diện tích khoảng 1.380ha, đầu tư công nghệ nuôi phù hợp với từng đối tượng nuôi.
Sông Cầu cũng đang kiện toàn 129 tổ cộng đồng NTTS theo quy chế tự chủ, tương trợ, hỗ trợ sản xuất, truy xuất nguồn gốc hàng hóa, bảo vệ môi trường, bảo vệ ANTT. Triển khai Đề án thu gom, xử lý rác thải từ NTTS lồng, bè; đầu tư hạ tầng ven bờ phục vụ NTTS; ứng dụng khoa học công nghệ và phát triển NTTS vùng biển xa bờ; chuyển đổi lồng bè nuôi thích ứng với biến đổi khí hậu.
Lãnh đạo phòng Nông nghiệp và Môi trường TX Sông Cầu thông tin, theo kế hoạch, TX Sông Cầu sẽ giảm số lượng lồng, bè NTTS ở đầm Cù Mông và vịnh Xuân Đài. Theo đó, đến năm 2027 ở TX Sông Cầu còn khoảng 1.000ha (đầm Cù Mông 253ha, vịnh Xuân Đài 747ha). Đến năm 2030, đầm Cù Mông giảm còn 200ha, tổng thể tích lồng nuôi khoảng 86.000m3 (tương đương 8.000 lồng, trong đó nuôi tôm hùm thương phẩm 3.000 lồng, ương tôm hùm giống 4.000 lồng, nuôi cá biển 1.000 lồng);
Tại vịnh Xuân Đài giảm còn 600ha, tổng thể tích lồng nuôi khoảng 607.125m3 (tương đương 39.000 lồng, trong đó nuôi tôm hùm thương phẩm 30.000 lồng, ương tôm hùm giống 3.000 lồng, nuôi cá biển 6.000 lồng)….
Với những giải pháp đồng bộ, Phú Yên đang hướng đến mục tiêu phát triển nuôi thủy sản lồng bè tại sông Cầu một cách bền vững, minh bạch và hiệu quả. Việc hoàn thiện cơ chế, kiểm soát chất lượng, xử lý ô nhiễm cùng đa dạng đối tượng nuôi sẽ góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, đồng thời bảo vệ tài nguyên nước, hướng đến sản xuất bền vững, hài hòa với môi trường. Qua những nỗ lực này, thủy sản lồng bè sẽ trở thành thế mạnh kinh tế, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Thuý Hà
Bình luận