Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 24/11/2024 08:11
Thứ sáu, 28/04/2023 04:04
TMO - Cơ sở dữ liệu (CSDL) đất đai có vai trò hỗ trợ đắc lực cho công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhằm xây dựng được các phương án sử dụng đất hợp lý, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường của từng địa phương cũng như cả nước.
Trong giai đoạn hiện nay, việc hoàn thiện các nhiệm vụ xây dựng hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, cần được ưu tiên triển khai, để từ đó, để cơ sở dữ liệu đất đai được xây dựng đồng bộ, đầy đủ trên phạm vi cả nước theo lộ trình thống nhất tạo nền tảng cho triển khai Chính phủ điện tử, Chính quyền điện tử và đô thị thông minh…
Tại chương XI của dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất sửa đổi, bổ sung các vấn đề sau: Bổ sung quy định tại khoản 1,2,3 Điều 134 về Hệ thống thông tin quốc gia về đất đai được thiết kế tổng thể và xây dựng thành một hệ thống tập trung, thống nhất, đồng bộ, đa mục tiêu và kết nối liên thông trên phạm vi cả nước; quy định cơ sở dữ liệu đất đai được xây dựng, vận hành để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai tại khoản 1,3 Điều 135 tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số.
Đề xuất bổ sung quy định tại Điều 136 dự thảo Luật về quản lý, kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu giữa cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai với cơ sở dữ liệu của các Bộ, ngành, địa phương và quy định về việc khai thác thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai. Bổ sung quy định về cung cấp các dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực đất đai và trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc xây dựng, tổ chức, hướng dẫn triển khai dịch vụ công trực tuyến về đất đai, bảo đảm tính đồng bộ, kết nối, liên thông tại Điều 137 dự thảo Luật.
Đề xuất bổ sung quy định tại Điều 138 về việc bảo đảm kinh phí để xây dựng, quản lý, vận hành, khai thác và sử dụng hệ thống thông tin đất đai theo hướng được sử dụng từ nguồn ngân sách nhà nước, nguồn vốn vay, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các nguồn khác theo quy định của pháp luật để đảm bảo mục tiêu hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu vào năm 2025 của Nghị quyết số 18-NQ/TW. Bổ sung quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành liên quan và UBND cấp tỉnh trong việc xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống thông tin quốc gia về đất đai tại khoản 1 và khoản 3 Điều 139.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, đề xuất bổ sung các quy định nêu trên nhằm đảm bảo xây dựng hệ thống thông tin đất đai quốc gia theo hướng tập trung, thống nhất, đồng bộ, đa mục tiêu và kết nối liên thông trên phạm vi cả nước theo nội dung của Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban chấp hành Trung ương đảng khóa XIII, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai; kết nối, chia sẻ dữ liệu với cơ sở dữ liệu của các Bộ, ngành, địa phương tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số.
Hệ thống thông tin đất đai và CSDL đất đai là công cụ để thực hiện tốt nhất công tác quản lý hiện đại; giúp Chính phủ kiểm soát tốt nhất tài nguyên đất; đây là các yếu tố quan trọng góp phần vào khả năng phát triển ổn định kinh tế - xã hội.
Nhiều ý kiến cho rằng, cần hoàn thiện hệ thống quản lý đất đai dựa trên những nền tảng cơ bản áp dụng công nghệ trong quy trình xử lý. Hệ thống bao gồm các tính năng, giải pháp đảm bảo an toàn, an ninh phục vụ việc kết nối liên thông và chia sẻ dữ liệu đất đai do trung ương, địa phương quản lý với Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia cung cấp thông tin cho Trung tâm thông tin điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cổng Dịch vụ công Quốc gia phục vụ công tác chỉ đạo điều hành và cung cấp dịch vụ công trực tuyến; kết nối chia sẻ, sử dụng chung cho các bộ, ngành, địa phương giúp cung cấp dịch vụ công thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp, phát triển Chính quyền điện tử, chuyển đổi số tiến tới Chính phủ số.
Theo nhiều chuyên gia, Chính phủ cần ban hành Nghị định quy định về xây dựng, quản lý, vận hành và khai thác sử dụng hệ thống thông tin đất đai để làm cơ sở thống nhất triển khai giữa các Bộ, ngành và các địa phương trên toàn quốc. Hạ tầng thông tin đất đai và CSDL đất đai quốc gia - yếu tố cốt lõi để hỗ trợ vận hành công tác chuyên môn, cải cách thủ tục hành chính cũng như phục vụ cho việc phối, kết hợp với các bên có liên quan khác - vẫn chưa hoàn chỉnh, vừa thiếu vừa yếu, chưa triển khai được hệ thống quản lý, kết nối, tổng hợp dữ liệu đất đai ở địa phương vào CSDL đất đai quốc gia nền tảng phát triển Chính phủ điện tử;
Để hoàn thành mục tiêu xây dựng cơ sở dữ liệu đồng bộ, thống nhất trên phạm vi cả nước, Bộ TN&MT cho rằng, UBND các tỉnh cần tiếp tục tập trung ưu tiên nguồn lực tiếp tục đẩy mạnh tiến độ và hoàn thành xây dựng cơ sở dữ đất đai và hệ thống thông tin quốc gia về đất đai tập trung, thống nhất, đồng bộ, đa mục tiêu và kết nối liên thông gắn với chuyển đổi số quốc gia, cung cấp dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp. Đặc biệt là bảo đảm kinh phí xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai; Các cấp có thẩm quyền xem xét, ưu tiên bố trí đủ kinh phí hoàn thiện, nâng cấp hạ tầng số, nền tảng số; xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia ở trung ương, địa phương theo kế hoạch, nhiệm vụ được giao.
Đến nay, ngành TN&MT đã hoàn thành số hóa, đưa vào sử dụng CSDL đất đai ở 397/705 đơn vị cấp huyện với 43 triệu thửa đất. Trong đó đã kết nối, chia sẻ 18 trường thông tin ở 56/63 tỉnh, thành phố; 316/705 đơn vị cấp huyện, 4.076/10.599 đơn vị cấp xã với hơn 24 triệu thửa đất, số lượng kết nối đang tiếp tục tăng. Các dịch vụ công trực tuyến sử dụng dữ liệu dân cư được triển khai, trong đó các thủ tục: Đăng ký biến động về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất do thay đổi thông tin về người được cấp giấy chứng nhận (đổi tên hoặc giấy tờ pháp nhân, giấy tờ nhân thân, địa chỉ) đã được triển khai tại 50/63 tỉnh, thành phố.
Bộ TN&MT cũng vận hành hệ thống hồ sơ điện tử phục vụ chỉ đạo điều hành, xử lý hồ sơ, ký số hoàn toàn trên môi trường mạng, bảo đảm văn bản xử lý theo thời gian thực (không còn tồn tại tình trạng lấy số trước). Hệ thống quản lý văn bản và hồ sơ điện tử của bộ đã xử lý, giải quyết 301.500 văn bản đến, 69.400 hồ sơ, văn bản đi; tỷ lệ văn bản điện tử gắn ký số đạt xấp xỉ 100%.
Lê Mai
Bình luận