Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 23/11/2024 03:11
Thứ tư, 14/09/2022 12:09
TMO - Nhằm thúc đẩy hoạt động khí tượng thủy văn phát triển, phục vụ hiệu quả công tác phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần phát triển bền vững kinh tế-xã hội bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa hoàn thiện dự thảo và đang lấy ý kiến góp ý rộng rãi của tổ chức, cá nhân về Quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Dưới tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH), thiên tai có nguồn gốc khí tượng thủy văn có xu hướng gia tăng cả về cường độ và tần suất xuất hiện trên phạm vi toàn quốc. Quá trình đô thị hóa nhanh và rộng cũng làm biến đổi nhiều đặc tính khí hậu trước đây từ quy mô cấp tỉnh cho đến khu vực, đặc biệt, hành lang kỹ thuật của nhiều công trình quan trắc khí tượng thủy văn quốc gia đã bị vi phạm nghiêm trọng. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho công tác quan trắc, đo đạc, giám sát BĐKH, dự báo và cảnh báo thiên tai.
Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch các mạng lưới trạm quan trắc tài nguyên môi trường, trong đó có mạng lưới trạm quan trắc khí tượng thủy văn, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm, chỉ đạo lập và thực hiện quy hoạch tổng thể mạng lưới trạm quan trắc tài nguyên môi trường quốc gia từ năm 2007, tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện tại Quyết định số 90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy hoạch mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Theo đánh giá của Bộ TN&MT, mạng lưới trạm quan trắc khí tượng thủy văn (KTTV) vẫn còn thưa so với các nước phát triển trên thế giới và theo khuyến cáo của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) mà Việt Nam là thành viên. Do đặc điểm địa hình phức tạp của Việt Nam, diễn biến khí hậu có sự phân hóa rõ rệt nên các số liệu quan trắc chưa đáp ứng được số liệu đầu vào cho các mô hình dự báo số trị, đặc biệt công tác dự báo, cảnh báo thiên tai trên biển.
Việc phân bố số lượng trạm quan trắc môi trường ở các vùng kinh tế trọng điểm, vùng có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao như khu đô thị ven biển, các khu du lịch, danh lam thắng cảnh còn nhiều hạn chế do mật độ trạm quan trắc còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn; một số vị trí quy hoạch đặt trạm chưa được khảo sát kỹ các điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng và cơ sở hạ tầng.
Ngoài ra, để bảo đảm tính bền vững và hiệu quả của Quy hoạch cũng như tính đồng bộ, hiện đại của mạng lưới thì việc lựa chọn công nghệ, chủng loại thiết bị quan trắc phù hợp với vị lắp đặt trạm và ứng dụng công nghệ viễn thám vào quan trắc các yếu tố KTTV cũng đã và đang đặt ra nhiều thách thức đối với công tác Quy hoạch của Ngành Khí tượng Thủy văn.
Dưới tác động của BĐKH, mạng lưới khí tượng thủy văn quốc gia cần được nâng cấp và hoàn thiện
Theo dự thảo, những hạn chế, tồn tại nêu trên cần phải được rà soát, đánh giá toàn diện, từ đó tiếp tục bổ sung, hoàn thiện Quy hoạch mạng lưới trạm KTTV quốc gia. Việc tổ chức xây dựng “Lập quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” mang tính cấp bách, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và pháp lý trong thời điểm hiện nay.
Mục tiêu tổng quát của Quy hoạch là phát triển mạng lưới trạm KTTV quốc gia hoàn chỉnh, hiện đại, đồng bộ, đạt trình độ ngang bằng với các nước phát triển trong khu vực Châu Á vào năm 2030, có khả năng lồng ghép, tích hợp, kết nối, chia sẻ với mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia và mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn toàn cầu, đáp ứng nhu cầu thông tin, dữ liệu phục vụ công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, phòng, chống thiên tai, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Về mục tiêu cụ thể, giai đoạn 2021 - 2025 sẽ tăng dày mật độ, khoảng cách trạm KTTV tự động ngang bằng với các nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á, trong đó mật độ trạm khí tượng bề mặt khoảng 34 km2/trạm, đo mưa khoảng 11 km2/điểm, ra đa thời tiết khoảng 150 km2/trạm, bức xạ khoảng 148 km2/trạm, định vị sét khoảng 125 km2/trạm, khoảng cách trạm hải văn khoảng 112 km/trạm, ra đa biển khoảng 250 km/trạm; bảo đảm các yêu cầu phục vụ dự báo điểm, đầu vào cho mô hình dự báo số.
Ưu tiên phát triển mới các trạm quan trắc KTTV tại các vùng, khu vực thường xuyên chịu tác động của các loại hình thiên tai KTTV, khu vực ven biển và hải đảo, vùng trống số liệu và những yếu tố quan trắc có nhu cầu cấp bách phục vụ dự báo, cảnh báo, phòng chống thiên tai, phát triển kinh tế - xã hội và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Duy trì, nâng cấp và hiện đại hóa các trạm KTTV hiện có; xây dựng mới và đưa vào vận hành một số trạm KTTV, bao gồm: Nâng cấp và hiện đại hóa 134 trạm (bao gồm các trạm được lồng ghép: giám sát biến đổi khí hậu; môi trường không khí; môi trường nước sông, hồ, biển) trong đó: 50 trạm khí tượng bề mặt, 75 trạm thủy văn và 09 trạm hải văn cho các vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và duyên hải Miền Trung, khu vực ven biển và hải đảo thuộc khu vực Đông Bắc, Trung Trung Bộ và Nam Bộ.
Xây dựng mới 1.328 trạm/điểm KTTV theo hướng tự động và hiện đại (bao gồm các trạm được lồng ghép: giám sát biến đổi khí hậu; môi trường không khí; môi trường nước sông, hồ, biển), trong đó: 77 trạm khí tượng bề mặt, 11 trạm thủy văn, 3 trạm hải văn, 4 trạm khí tượng trên cao, 5 trạm ra đa thời tiết, 3 trạm định vị sét, 1 trạm bức xạ, 09 trạm ra đa biển, 28 trạm đo mặn và 1.187 điểm đo mưa cho các vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, ven biển và hải đảo.
Đồng thời, mâng cấp hệ thống hạ tầng thông tin và cơ sở dữ liệu hiện đại với dung lượng phù hợp theo số lượng trạm được tăng thêm và thực hiện cùng với nâng cấp, xây mới trạm KTTV; Giảm khoảng 20% số lượng quan trắc viên tại các trạm KTTV hiện có được tự động hóa, điều chỉnh số người giảm đang hưởng lương từ nguồn ngân sách sang hưởng lương từ nguồn tự chủ, nguồn dịch vụ và một số nguồn hợp pháp khác.
Tiếp đó, trong giai đoạn 2026 – 2030, sẽ tiếp tục tăng dày mật độ trạm KTTV tự động, trong đó: trạm khí tượng bề mặt khoảng 29 km2/trạm, đo mưa khoảng 9 km2/điểm, ra đa thời tiết khoảng 112 km2/trạm, bức xạ khoảng 136 km2/trạm, định vị sét khoảng 120 km2/trạm, ô dôn - bức xạ cực tím khoảng 287 km2/trạm, hải văn khoảng 70 km/trạm, ra đa biển khoảng 200 km/trạm, phao biển 650 km/trạm. Ưu tiên phát triển các trạm quan trắc KTTV trên biển, đảo, quần đảo, vùng trời phục vụ dự báo, cảnh báo KTTV và phát triển kinh tế biển.
Các địa phương đẩy mạnh đầu tư hệ thống hạ tầng, nâng cấp mạng lưới trạm khí tượng thủy văn
Hoàn thành xây dựng và đưa vào hoạt động các trạm mới trong quy hoạch, đưa mạng lưới trạm KTTV quốc gia của Việt Nam đạt trình độ ngang bằng một số nước phát triển trong khu vực Châu Á, bao gồm: Nâng cấp và hiện đại hóa 61 trạm trong đó: 33 trạm khí tượng bề mặt, 21 trạm thủy văn và 7 trạm hải văn cho các vùng: Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và duyên hải Miền Trung, khu vực ven biển và hải đảo thuộc khu vực Đông Bắc, Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ.
Xây dựng mới 1.230 trạm/điểm KTTV theo hướng tự động và hiện đại, trong đó: 98 trạm khí tượng bề mặt, 59 trạm thủy văn, 20 trạm hải văn, 5 trạm khí tượng trên cao, 5 trạm ra đa thời tiết, 2 trạm định vị sét, 3 trạm ra đa biển, 5 trạm phao biển, 29 trạm đo mặn và khoảng 1.000 điểm đo mưa cho các vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, ven biển và hải đảo.
Hoàn thành nâng cấp và hiện đại hóa các phòng thí nghiệm, hệ thống kiểm định phương tiện đo KTTV; hiện đại hóa hệ thống các trung tâm thông tin, dữ liệu và chuyển đổi số ngành KTTV. Tiếp tục giảm khoảng 20% số lượng quan trắc viên tại các trạm KTTV hiện có được tự động hóa, điều chỉnh số người giảm đang hưởng lương từ nguồn ngân sách sang hưởng lương từ nguồn tự chủ, nguồn dịch vụ và một số nguồn hợp pháp khác.
Định hướng đến năm 2050, mạng lưới trạm KTTV quốc gia bảo đảm tính hiện đại, tự động, có mật độ trạm ngang bằng với các nước phát triển trên thế giới; tiếp cận, nghiên cứu và đưa vào thử nghiệm trên mạng lưới trạm KTTV quốc gia một số loại hình quan trắc hiện đại: camera thông minh, trạm quan trắc trên các phương tiện di động như máy bay trinh sát khí tượng, tàu biển, vệ tinh viễn thám, thiết bị không người lái...
Theo dự thảo, nhu cầu vốn đầu tư mạng lưới trạm KTTV quốc gia đến năm 2030 dự kiến khoảng 3.273 tỷ đồng, được huy động từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác. Căn cứ vào tính chất của Quy hoạch mạng lưới trạm KTTV, dự kiến có các nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách; giải pháp về tổ chức bộ máy, phát triển nhân lực vận hành, quản lý trạm khí tượng thủy văn; giải pháp huy động và phân bổ vốn đầu tư; giải pháp về khoa học và công nghệ; giải pháp về hợp tác quốc tế và nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện quy hoạch.
Lê Hồng
Bình luận