Hotline: 0941068156
Thứ hai, 25/11/2024 08:11
Thứ bảy, 10/09/2022 11:09
TMO - Chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là chiến lược hết sức quan trọng, cần hoàn thiện sớm, là căn cứ để Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) hoàn thiện công tác quản lý quy hoạch, điều tra cơ bản địa chất, thăm dò, khai thác khoáng sản.
Vừa qua, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức hội thảo về dự thảo “Chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Quý Kiên cho biết, sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập xây dựng Chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đến nay, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã xây dựng kế hoạch và phân công Vụ Địa chất xây dựng Chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tiến tới trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào cuối năm nay.
Việc triển khai xây dựng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 giữ vai trò quan trọng
Ông Lại Hồng Thanh, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cho biết, tất cả các nội dung của dự thảo Chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đều được xây dựng trên cơ sở bám sát Nghị quyết số 10-NQ/TW và Nghị quyết số 88/NQ-CP ngày 22/7/2022 về việc ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW.
Cụ thể, mục tiêu tổng quát của dự thảo chiến lược là hoàn thành lập bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 phần đất liền; hoàn thành công tác điều tra địa chất khoáng sản biển tỷ lệ 1:500.000 vùng nước sâu; đánh giá làm rõ tiềm năng tài nguyên khoáng sản phục vụ quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng và dự trữ quốc gia.
Ngoài ra, thăm dò đáp ứng nhu cầu khai thác, chế biến khoáng sản đến năm 2050 đối với các khoáng sản: than, urani, titan-zircon, đất hiếm, apatit…; đầu tư công nghệ thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản đạt trình độ các nước tiên tiến khu vực châu Á và các nước phát triển. Bên cạnh đó, hình thành công nghiệp khai khoáng tiên tiến, hiện đại gắn với bảo vệ môi trường, mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu và hướng tới mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính theo mục tiêu phát thải ròng bằng 0 trước năm 2050.
Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cũng chỉ rõ 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu của dự thảo Chiến lược gồm: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về điều tra cơ bản địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực này.
Tăng cường nguồn lực thực hiện công tác điều tra cơ bản địa chất, khoáng sản; nâng cao chất lượng, giảm thiểu rủi ro, hạn chế các dự án đầu tư, khai thác, chế biến khoáng sản; tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại và hợp tác quốc tế trong điều tra cơ bản địa chất, thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản.
Sau hơn 10 năm thực hiện Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Chiến lược khoáng sản), Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã tích cực triển khai, cụ thể hóa nội dung thăm dò, khai thác, chế biến đối với một số loại khoáng sản quan trọng và đạt được những kết quả tích cực, tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, vướng mắc cần được tháo gỡ.
Đối với khoáng sản than, công tác thăm dò, khai thác, chế biến đến nay đã đạt được các nội dung cơ bản của định hướng chiến lược, than nâu vùng Đồng bằng Sông Hồng khoan sâu đến 1100m. Tuy nhiên, đến nay chưa nghiên cứu và lựa chọn được phương pháp khai thác thử nghiệm đối với than nâu vùng Đồng bằng Sông Hồng như Chiến lược khoáng sản đề ra.
Về khoáng sản phóng xạ (urani), cơ bản đã hoàn thành mục tiêu về trữ lượng khi thăm dò quặng urani tại Pà Lưa - Pà Rồng tỉnh Quảng ). Hiện chưa tiến hành nghiên cứu công nghệ khai thác, chế biến quặng urani để phục vụ nhu cầu nguyên liệu cho các nhà máy điện nguyên tử mà Chiến lược đã đặt ra do đang tạm dừng triển khai xây dựng nhà máy điện nguyên tử tại Ninh Thuận.
Đối với khoáng sản kim loại, cụ thể với quặng titan - zircon, mục tiêu về thăm dò đã đạt được kết quả đáng kể. Tuy nhiên, công tác xây dựng các nhà máy chế biến sâu quặng titan vẫn chưa đạt mục tiêu trong khi Chiến lược đã đặt ra kế hoạch thực hiện tại khu vực Lương Sơn (tỉnh Bình Thuận) và xây dựng các nhà máy chế biến sâu quặng titan (rutil nhân tạo, pigment, titan xốp, titan kim loại).
Công tác thăm dò, khai thác, chế biến đối với một số loại khoáng sản quan trọng và đạt được những kết quả tích cực
Với quặng bô xít, công tác thăm dò các mỏ bô xít vùng Tây Nguyên, Bình Phước cơ bản hoàn thành với trữ lượng quặng bô - xit cơ bản đáp ứng xây dựng ngành công nghiệp khai thác, chế biến lâu dài. Đồng thời, công tác thăm dò đã hoàn thành xây dựng, vận hành 2 tổ hợp khai thác bô xít, alumin tại Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đăk Nông) với công nghệ sản xuất alumin thuộc loại tiên tiến và bắt đầu hoạt động có hiệu quả là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu mở rộng quy mô đầu tư trong thời gian tới; về chế biến chuyên sâu, đã triển khai nghiên cứu khả thi nhà máy sản xuất nhôm kim loại tại Đắk Nông.
Với quặng đất hiếm, đã hoàn thành thăm dò các mỏ Đông Pao (Lai Châu) và Yên Phú (Yên Bái). Tuy nhiên, các dự án khai thác, chế biến quặng đất hiếm tại mỏ Đông Pao (dự kiến năm 2019) có sản phẩm tinh quặng không đạt và đang tạm dừng hoạt động, chưa gắn kết được đầu tư chế biến sâu đất hiếm...
Đối với khoáng sản không kim loại, cụ thể là khoáng sản làm nguyên liệu xi măng, sau 10 năm thực hiện Chiến lược, các mỏ đá vôi, đá sét đã thăm dò đủ trữ lượng để khai thác theo quy hoạch. Với nhu cầu sử dụng nguyên liệu cho sản xuất xi măng hiện nay trung bình khoảng 110 triệu tấn đá vôi/năm, 21 triệu tấn đất sét/năm và 15 triệu tấn phụ gia cho sản xuất xi măng/năm thì trữ lượng và năng lực khai thác, chế biến hiện hoàn toàn đáp ứng đủ nhu cầu phục vụ ngành sản xuất xi măng trong 20 - 25 năm tới.
Ngành công nghiệp khai thác, sản xuất xi măng của Việt Nam phát triển nhanh chóng, sản lượng tăng gấp 2 lần sau 10 năm đưa Việt Nam vào danh sách top 5 thế giới về năng lực sản xuất xi măng (sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ và Nga).
Khoáng sản làm nguyên liệu ốp lát, đá ốp lát tự nhiên của nước ta có tiềm năng rất lớn và đa dạng phân bố chủ yếu tại các tỉnh Nghệ An, Yên Bái, Huế, Bình Định, Khánh Hòa, Phú Yên, Đắk Lắk, Kon Tum, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu,... 10 năm qua, tổng trữ lượng đá ốp các loại đã thăm dò, được phê duyệt khoảng trên 150 triệu m3, với công suất khai thác hiện tại đủ khai thác trên 20 năm. Hiện có khoảng 200 nhà máy chế biến đá ốp lát trên toàn quốc với tổng công suất trên 18 triệu m2/năm, tuy nhiên sản lượng thực tế thấp, đạt khoảng 50%.
Đối với khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (VLXDTT), thực hiện Chiến lượng khoáng sản, các địa phương đã đẩy mạnh cấp phép thăm dò, phê duyệt trữ lượng khoáng sản làm VLXDTT gồm: Đá, cát, sỏi xây dựng và san lấp, sét làm gạch ngói. Đến nay, đã thăm dò và phê duyệt trữ lượng trên 950 triệu m3 đá, trên 650 triệu m3 đất sét gạch ngói, trên 400 triệu m3 cát, sỏi và trên 200 triệu m3 đất, cát làm vật liệu san lấp. Tuy nhiên, với nhu cầu sử dụng khoáng sản làm VLXDTT như hiện nay, nhất là đá và cát, sỏi sẽ không đủ trữ lượng để khai thác trong 10 năm tới...
Huy Vũ
Bình luận