Hotline: 0941068156

Thứ ba, 24/06/2025 03:06

Tin nóng

Cần thực hiện ‘3 tiên phong’ trong xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo

Quyết liệt thực hiện giải phóng mặt bằng phục vụ thi công các dự án trọng điểm

Gò Công Tây: Đa cổ thụ gần 300 năm tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Tổng Bí thư nêu 5 nhiệm vụ báo chí cần thực hiện trong kỷ nguyên mới

Tuyệt đối không để gián đoạn trong lãnh đạo, chỉ đạo ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai

Tạp chí điện tử Thiên nhiên và Môi trường tổ chức gặp mặt nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam

TP. HCM (mới) cần đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng

Điều chỉnh cơ chế tiền vay khuyến khích sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn

Bình Dương: Điệp phèo heo hơn 100 tuổi trong trường học được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Hà Nội cần tái thiết không gian phát triển theo hướng mở, đa trung tâm

Bình Dương: Thêm nhiều cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp

Phải thay đổi tư duy quản lý, tư duy hành chính và tư duy về địa giới hành chính

Việt Nam - Thụy Điển: Đẩy mạnh hợp tác chuyển đổi xanh, ứng phó biến đổi khí hậu

Việt Nam – Litva: Đẩy mạnh chia sẻ kinh nghiệm, tăng cường hợp tác khoa học công nghệ

Quốc hội thông qua Nghị quyết về sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh

TP. Huế: Hơn 1.100 tàu thuyền đã vào bờ tránh bão số 1

Áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành bão số 1

Cắt giảm tối đa điều kiện cấp phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng

Áp thấp nhiệt đới trên Biển Đông khả năng mạnh thành bão

Thứ ba, 24/06/2025

Tác động môi trường xuyên biên giới – vấn đề cần được quan tâm đối với vùng ĐBSCL (Kỳ 1)

Thứ hai, 29/11/2021 20:11

TMO - Các công trình thủy điện, hồ đập…trên thượng lưu sông Mêkông được xác định là nguồn tác động lớn đến thủy văn, tài nguyên sinh thái, kinh tế - xã hội ở vùng ĐBSCL. Tạp chí điện tử Thiên nhiên và Môi trường trân trọng gửi tới bạn đọc nội dung (Kỳ 1) bài viết của PGS.TS. Lê Trình (Viện Khoa học Môi trường và Phát triển (VESDEC),  Tổ trưởng Tổ Tư vấn quốc tế ĐMC Quy hoạch Vùng ĐBSCL, Ủy viên BCH (VACNE).

Vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nằm ở cuối nguồn sông Mêkông phía Bắc tiếp giáp với Vương quốc Campuchia và tỉnh Tây Ninh, phía Đông Bắc tiếp giáp thành phố Hồ Chí Minh; giáp Biển Tây (vịnh Thái Lan) về phía Tây và Biển Đông về phía Nam và Đông Nam. Vùng này nằm ở vị trí chiến lược ở Đông Nam Á và dọc hành lang kinh tế phía Nam của Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng (GMS), kết nối Việt Nam với Campuchia, Lào, Thái Lan và các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). ĐBSCL có tổng diện tích đất liền 4.312.139 ha. Theo thống kê (tháng 4/2019) dân số toàn vùng là 17.273.630 người, chiếm 17,94% tổng dân số cả nước. 

ĐBSCL là vùng kinh tế quan trọng của Việt Nam, theo số liệu năm 2018: vùng này cung cấp trên 55,3% sản lượng lúa của Việt Nam và hơn 95% kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thập kỷ qua; khoảng 70% sản lượng trái cây của Việt Nam và là vùng đóng góp lớn nhất về đánh bắt và nuôi thủy sản (tương ứng là 56,0% và 69,9% so với toàn quốc).

Tuy nhiên ĐBSCL vẫn là vùng chưa phát triển đúng với tiềm năng, thu nhập theo đầu người chỉ bằng khoảng 57% so với vùng Đồng bằng Bắc Bộ, 36% so với vùng Đông Nam Bộ; công nghiệp, đô thị, văn hóa, giáo dục chậm phát triển…..Các nguyên nhân chính được xác định là: hạn chế về đầu tư của Nhà nước vào các công trình hạ tầng; hạn chế về trình độ dân trí, khoa học công nghệ; tác động do hậu quả của biến đổi khí hậu gây trầm trọng thêm các vấn đề xâm nhập mặn, khô hạn, xói lở; tài nguyên thiên nhiên ngày càng suy giảm.

Ngoài ra, tác động môi trường xuyên biên giới gây thay đổi đặc trưng về thủy văn, trầm tích, suy giảm nguồn lợi thủy sản, chất lượng nước của sông Mêkông đang và sẽ là yếu tố quan trọng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh thái, kinh tế và xã hội của vùng. Vấn đề này sẽ ngày càng lớn và khó giải quyết nếu không có sự quan tâm thích đáng của các bộ, ngành, các nhà khoa học và hợp tác quốc tế. Vì vậy chúng tôi cung cấp các thông tin thu thập từ nhiều tài liệu trong quá trình nghiên cứu đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 với mục đích cảnh báo các cơ quan, các nhà khoa học liên quan nhằm tăng cường hợp tác với các tổ chức khoa học trên thế giới và các quốc gia trong lưu vực sông trong nghiên cứu, dự báo tác động xuyên biên giới, ngăn chặn các quy hoạch, dự án phát triển có thể gây tổn hại lớn đến môi trường và xã hội vùng hạ lưu. Các tài liệu chúng tôi tham khảo dưới đây đều được ghi rõ tác giả và năm công bố.

Các nguồn gây tác động xuyên biên giới chính

Sơ lược về  sông Mêkông và lưu vực:

 Sông Mêkông (đoạn qua Trung Quốc được gọi là sông Lan Thương, đoạn qua Lào và Thái Lan được gọi là Mae Nam Khong, đoạn qua Campuchia được gọi là sông Mêcông và ở ĐBSCL được gọi là sông Cửu Long) là một trong những con sông có lưu lượng lớn nhất thế giới với tổng diện tích lưu vực là 795.000km2, chiều dài 4.909km. Lưu vực sông được chia thành: Vùng thượng lưu từ ngã 3 biên giới Thái Lan - Lào - Myanmar trở lên (vùng màu vàng trong Hình 1 dưới đây) và vùng hạ lưu từ điểm này ra đến Biển Đông (vùng màu xanh). Toàn bộ diện tích lưu vực Mêcông ở Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam đều nằm ở vùng hạ lưu.

Lưu vực sông Mêcông ở Việt Nam có diện tích khoảng 71.000km2, chiếm khoảng 9% diện tích toàn lưu vực và 20% diện tích Việt Nam. Tại ĐBSCL: Sông Mêcông trước khi vào vào Việt Nam được chia thành 2 nhánh chính là sông Mêcông (trên lãnh thổ ĐBSCL được đặt tên là sông Tiền) và sông Bassac (trên lãnh thổ ĐBSCL được đặt tên là sông Hậu), sau đó chia ra 8 (tám) nhánh đổ ra Biển Đông.

Đặc điểm cần lưu ý khi xem xét tác động xuyên biên giới là phần đóng góp về lưu lượng nước của các sông suối trên lãnh thổ Việt Nam chỉ 11%, vùng ĐBSCL phụ thuộc vào phần lớn lưu lượng nước từ các nước phía trên, trong đó Trung Quốc đóng góp 16%, Myanmar: 2%, Thái Lan: 18%, Lào: 35%, Campuchia: 18%.

Các nguồn gây tác động chính:

Hai nguồn tác động từ thượng lưu đến thủy văn, tài nguyên sinh thái và KT-XH ở ĐBSCL là: các công trình thủy điện, hồ đập và sử dụng nước tưới ở các quốc gia trong lưu vực nằm phía trên ĐBSCL.

Các công trình thủy điện, hồ đập lớn ở phía trên ĐBSCL

ĐBSCL nằm ở cuối nguồn sông Mêcông, khoảng 90% lưu lượng nước cấp cho vùng đồng bằng châu thổ này là từ thượng lưu. Vì vậy, chế độ thủy văn, lưu lượng, chất lượng nước, tài nguyên sinh học và kinh tế của ĐBSCL phụ thuộc rất lớn vào hoạt động lấy, xả nước từ các các quốc gia đầu nguồn.

Các công trình tại thượng lưu

Sông Lancang (Lan Thương) ở thượng nguồn Mêkông trên địa phận tỉnh Vân Nam - Trung Quốc có tiềm năng thuỷ điện rất lớn. Quy hoạch bậc thang thuỷ điện trong lưu vực sông Lancang được tiến hành từ những năm 1980, có 25 bậc thang trên dòng chính với tổng công suất lắp máy là 25.870 MW và 120 trạm thuỷ điện trên các dòng nhánh với tổng công suất lắp máy là 2.600 MW. Cho đến nay, trên lãnh thổ Trung Quốc có 8 công trình thủy điện chính trên sông Lan Thương đã và đang xây dựng gồm: đập thủy điện Cống Quả Kiều (Gongguaxiao) cao 105 m, trữ nước vào tháng 6/2011, đập thủy điện Tiểu Loan (Xiaowan) cao 292 m, công suất phát điện 4.200 MW đưa vào hoạt động từ tháng 10/2009, đây là đập lớn thứ 2 Trung Quốc sau đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang. Sau đó là các đập Mãn Loan (Man Wan) cao 132 m, dung tích 920 triệu m3, công suất phát 1.500 MW hoàn thành 1993; Đại Triều Sơn (Dachaoshan) cao 118 m, dung tích 940 triệu m3, công suất phát 1.350 MW hoàn thành cuối năm 2003. Tiếp theo là đập Cảnh Hồng (Jinghong) cao 108 m, công suất 1.500 MW hoàn thành 2009.  Ngoài ra, còn 3 đập khác đang trong quá trình xây dựng là Nọa Trát Độ (Nouzhadu),  đập Cảm Lâm (Ganlin) và đập Mãnh Tống (Mengsong) nằm ở đoạn hạ lưu sông Lan Thương.

Các công trình tại hạ lưu

11 dự án thủy điện trên dòng chính sông Mêkông đang được xây dựng hoặc đang lập dự án. Tất cả các đập thủy điện này nằm ở Thái Lan, Lào và Campuchia.

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã xây dựng nhiều công trình thủy điện lớn như Pak Beng, Xayaburi và Pak Lay và đang nghiên cứu xây dựng 23 đập thủy điện, trong đó có đập Ban Koun công suất lớn nhất khoảng 2.000 MW, công trình thủy điện Luang Prabang công suất 1.460 MW với đập dài 275 m, cao 80 m và rộng 97 m, dự kiến khởi công trong năm 2020. Đáng lưu ý là nhiều công trình lớn này đều trên dòng chính Mêkông. Ngoài 2 đập Sakamen 1 và 3, Thái Lan còn có kế hoạch tái khởi động xây dựng các đập trên sông Mêkông với công suất 4.000 MW. Campuchia cũng nghiên cứu 2 đập thủy điện là Sambor và Stung Treng có công suất khoảng 3.600 MW.

Việt Nam đã xây dựng nhiều thủy điện trên các sông Se San (tại Kon Tum, Gia Lai) và Serepok (tại Đăk Lăk, Đăk Nông) là các nhánh nhỏ của sông Mêcông, công suất khá nhỏ: Yaly (720 MW), Se San 4 (360 MW), Se San 4A (63 MW), Se San 3 (108 MW); các dự án khác: công suất dưới 100 MW.   

                     

Hình 1: Sơ đồ lưu vực sông Mêkông: vùng màu vàng: thượng lưu, vùng màu xanh: hạ lưu; Hình 2:  Sơ đồ các công trình đập thủy điện trong lưu vực Mêcông (Nguồn: The Foundation for Ecologial Recovery).    

Theo thông tin cập nhật của Ủy hội sông Mêkông: Số hồ chứa và dung tích chứa (tỷ m3) vào năm 2020 ở các quốc gia là: Trung Quốc: 11 (23,2 tỷ m3); Thái Lan: 7 (3,6 tỷ m3; Lào: 85 (34,7 tỷ m3); Campuchia: 2 (0,3 tỷ m3); Việt Nam (Tây Nguyên): 14 (2,8 tỷ m3). Tổng cộng 119 hồ, 64,6 tỷ m3. Dự kiến đến sau năm 2040 số hồ và dung tích sẽ là: Trung Quốc: 13 (25,1 tỷ m3); Thái Lan: 9 (4,9 tỷ m3; Lào: 110 (58,8 tỷ m3); Campuchia: 21 (18,4 tỷ m3); Việt Nam (Tây Nguyên): 15 (3,2 tỷ m3). Tổng cộng 168 hồ, 110,4 tỷ m3, tăng 1,7 lần so với năm 2020.

Việc xây dựng và vận hành một vài hồ, đập hay tất cả các hồ, đập thủy điện này sẽ có tác động đáng kể đến môi trường và kinh tế, xã hội ở cả 4 quốc gia hạ lưu, đặc biệt, tác động của các công trình ở dòng chính đối với châu thổ Mêkông của Việt Nam và Campuchia.

 Gia tăng nhu cầu sử dụng nước trong nông nghiệp

Theo số liệu của MRC (2017): Nhu cầu lấy nước ở các quốc gia, vùng thượng lưu vào năm 2020 như sau: Lào: 155 m3/s; Thái lan: 466 m3/s; Campuchia: 380 m3/s, Việt Nam (Tây Nguyên: 60 m3/s, tổng cộng: 1061 m3/s. Đến năm 2040, nhu cầu nước cho nông nghiệp ở thượng lưu sẽ là 1.579 m3/s, tăng 1,49 lần so với năm 2020.

(Còn nữa)

 

PGS.TS Lê Trình

Viện Khoa học Môi trường và Phát triển (VESDEC),  Tổ trưởng Tổ Tư vấn quốc tế ĐMC Quy hoạch Vùng ĐBSCL, Ủy viên BCH (VACNE).

 

Thích và chia sẻ bài viết:

Bình luận

    Bình luận của bạn

    cmt
      Web đang chạy kỹ thuật
      Zalo phone Hotline