Hotline: 0941068156

Thứ ba, 30/04/2024 00:04

Tin nóng

Quần thể 53 cây cổ thụ tại Bình Dương được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Quần thể chè Shan tuyết cổ thụ ở Sơn La được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cây nghiến Di sản - Tài sản vô giá của núi rừng Lâm Bình

Tam Kỳ (Quảng Nam): Đón Bằng công nhận Cây Di sản Việt Nam đối với quần thể 9 cây sưa cổ thụ

Cần cơ chế bảo tồn, phát huy giá trị Cây Di sản Việt Nam

Phát hiện 6.978 vụ vi phạm về môi trường trong 3 tháng đầu năm 2024

Hải Dương: Cây muồng ràng ràng 300 năm tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Thanh Oai (Hà Nội): 5 cây cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Giờ Trái đất 2024: Cả nước tiết kiệm được 428.000 kWh

Quần thể 9 cây sưa cổ thụ ở Tam Kỳ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Hải Phòng: Bồ đề và bàng cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

6 cổ thụ ở Tam Nông được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cuộc thi viết về Cây Di sản Việt Nam: Lan tỏa thông điệp bảo vệ cảnh quan, môi trường ứng phó biến đổi khí hậu

Phát động cuộc thi viết về Cây Di sản Việt Nam

Khẩn trương ứng phó cao điểm xâm nhập mặn

Cẩm Phả (Quảng Ninh): Nhiều cây cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Vĩnh Phúc: Duối cổ thụ hơn 700 tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cây Di sản - Báu vật nghìn năm tuổi giữa núi rừng Na Hang

Hàng trăm cây cổ thụ ở Lạng Sơn được công nhận quần thể Cây Di sản Việt Nam

Tuyên Quang: 2 nghiến cổ thụ hơn 1.000 năm được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Thứ ba, 30/04/2024

Rà soát, nâng cao hiệu quả vận hành công trình nước sạch nông thôn

Thứ năm, 04/04/2024 07:04

TMO - Tỉnh Đắk Lắk xác định, nước sạch là nhu cầu cấp thiết trong đời sống của mỗi gia đình, đây cũng là một trong những tiêu chí quan trọng để địa phương hoàn thành mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.  

Thông tin từ Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk cho biết, hiện nay tỉnh có 215 công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung cung cấp cho hơn 77.300 hộ, tổng mức đầu tư trên 758 tỷ đồng. Trong đó, có 87 công trình đầu tư chưa hoàn chỉnh chỉ phục vụ cấp nước tạm thời và 128 công trình được đầu tư hoàn chỉnh thì có 52 công trình tại 8 địa phương đã ngừng hoạt động. Đối với các công trình cấp nước ngừng hoạt động đều do Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã hoặc các ban chuyên môn của huyện làm chủ đầu tư. Sau khi công trình hoàn thành, được giao về cho cấp xã hoặc cộng đồng quản lý, vận hành.

Qua kiểm tra, đánh giá Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Đắk Lắk xác định: Các công trình ngưng hoạt động, hoạt động cầm chừng do nhiều nguyên nhân. Cụ thể, chủ đầu tư UBND cấp huyện, cấp xã hoặc các ban chuyên môn của huyện chưa nắm vững về chuyên môn ngành nước, dẫn đến những bất cập, tồn tại khi lập dự án gây khó khăn trong công tác quản lý, vận hành , như: Thiết kế và xác định nguồn nước chưa phù hợp, bị thiếu nước vào mùa khô, nhiều công trình không có hoặc có hệ thống xử lý nước nhưng chưa đạt yêu cầu dẫn đến chất lượng nước chưa đảm bảo quy chuẩn.

52 công trình cấp nước sạch nông thôn tại 8 địa phương trên địa bàn tỉnh đã ngừng hoạt động. 

Trước khi đầu tư xây dựng công trình chưa được các chủ đầu tư chú ý, một số công trình chưa có sự tham gia của người dân vùng hưởng lợi, dẫn đến khi đưa vào vận hành người dân không sử dụng nước hoặc số người sử dụng rất hạn chế. Đa số các công trình được đầu tư có quy mô nhỏ, dưới 100 hộ; đầu tư chưa hoàn chỉnh, chủ yếu để giải quyết tình trạng thiếu nước sinh hoạt khẩn cấp; thời gian đưa vào sử dụng đã lâu, trên 10 năm.

Các công trình sau khi hoàn thành được giao lại cho Uỷ ban nhân dân xã hoặc các ban tự quản thôn, buôn quản lý vận hành, không có chuyên môn, nghiệp vụ để vận hành công trình, việc duy tu bảo dưỡng gần như không được thực hiện. Kinh phí thu không đủ chi phí chi trả tiền điện nên đã bị cắt điện, hư hỏng xuống cấp nhưng không được sửa chữa kịp thời. Ngoài ra, còn có nguyên nhân khác như tình trạng biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan dẫn đến khô hạn trong các tháng mùa khô diễn ra gay gắt, ngày càng nghiêm trọng; do đó, một số công trình bị cạn kiệt nguồn nước, không đảm bảo cho hoạt động cho các trạm cấp nước.

Trước tình hình trên, Sở NN&PTNT Đắk Lắk đề nghị, UBND tỉnh chỉ đạo UBND các huyện và các đơn vị liên quan rà soát nhu cầu sử dụng nước tại các công trình cấp nước hoạt động kém hiệu quả và ngừng hoạt động. Đồng thời, đề xuất UBND tỉnh cho chủ trương cải tạo, sửa chữa, nâng cấp hoặc tự lồng ghép các nguồn kinh phí để sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, kiện toàn lại các tổ chức quản lý vận hành đảm bảo khi công trình đưa vào hoạt động phát huy hiệu quả.

Bên cạnh đó, lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư xây dựng các công trình có quy mô liên thôn, liên xã; hạn chế việc đầu tư xây dựng các công trình có quy mô nhỏ. Chủ đầu tư cần xác định rõ đơn vị quản lý vận hành công trình từ khi lập dự án. Quá trình thực hiện dự án phải phối hợp đơn vị quản lý vận hành để tham gia ý kiến trong các vấn đề mang tính kỹ thuật. Chỉ đạo UBND xã, các đơn vị thực hiện trình tự, thủ tục lập hồ sơ giao tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước sạch nông thôn theo quy định.

UBND tỉnh chỉ đạo UBND các huyện và các đơn vị liên quan rà soát để nâng cao hiệu quả công trình cấp nước sạch nông thôn trên địa bàn. 

Ngoài ra, xem xét cho chủ trương xây dựng đề án “Đầu tư xây dựng và sửa chữa, nâng cấp các công trình cấp nước tập trung nông thôn trên địa bàn tỉnh” theo đề nghị của Sở NN&PTNT tại báo cáo số 71/BC-SNN ngày 19/3/2024 nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ giải pháp, lộ trình thực hiện để đảm bảo mục tiêu về lĩnh vực cấp nước nông thôn trên địa bàn tỉnh. Sở NN&PTNT cần xác định chỗ nào bà con đang gặp khó khăn để cùng với địa phương có giải pháp. Đồng thời, rà soát lại các công trình cần sửa chữa, nâng cấp.

Xác định công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung là hạ tầng quan trọng, cung cấp nước sinh hoạt, góp phần cải thiện đời sống, nâng cao sức khỏe cho người dân; góp phần bảo đảm an sinh xã hội, phát triển kinh tế khu vực nông thôn, Kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược Quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nhấn mạnh đến mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2030 có 65% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt chất lượng theo quy chuẩn với số lượng tối thiểu 60 lít/người/ngày; 100% người dân nông thôn thường xuyên thực hiện vệ sinh cá nhân; phấn đấu 25% điểm dân cư nông thôn tập trung có hệ thống thu gom nước thải sinh hoạt, 15% nước thải sinh hoạt được xử lý; 75% hộ chăn nuôi, trang trại được xử lý chất thải chăn nuôi.

Mục tiêu đến năm 2045, 100% người dân nông thôn được sử dụng nước sạch và vệ sinh an toàn, bền vững; 50% điểm dân cư nông thôn tập trung có hệ thống thu gom nước thải sinh hoạt, 30% nước thải sinh hoạt được xử lý; 100% hộ chăn nuôi, trang trại được xử lý chất thải chăn nuôi. Để đạt được mục tiêu trên, địa phương này tập trung thông tin, giáo dục, truyền thông đến các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động nước sạch và vệ sinh nông thôn; tổ chức phát động Tuần lễ quốc gia Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn hàng năm và triển khai các hoạt động hưởng ứng; tuyên truyền, phổ biến pháp luật, cơ chế, chính sách; thay đổi hành vi, thói quen; sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; bảo vệ nguồn nước, công trình cấp nước; đảm bảo vệ sinh hộ gia đình, vệ sinh cá nhân.

Hướng dẫn người dân chủ động tích, trữ nước để sử dụng trong mùa khô, thời gian hạn hán, ngập lụt; Kết hợp đa dạng loại hình truyền thông, kết hợp giữa phương thức truyền thống với ứng dụng công nghệ thông tin, tập trung vào vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Chia sẻ thông tin liên quan đến công tác lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước, vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt; công bố thông tin chất lượng nước sinh hoạt, cảnh báo hiện tượng bất thường về chất lượng nước đối với các nguồn cấp nước sinh hoạt trên địa bàn; Huy động tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cá nhân và cộng đồng tích cực tham gia truyền thông nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước. 

 

 

Thúy Hằng 

 

 

 

 

Thích và chia sẻ bài viết:

Bình luận

    Bình luận của bạn

    cmt
      Web đang chạy kỹ thuật
      Zalo phone Hotline