Hotline: 0941068156
Thứ sáu, 22/11/2024 17:11
Thứ sáu, 30/12/2022 04:12
TMO - Thời gian tới, tỉnh Thanh Hóa đẩy mạnh khai thác tiềm năng và sử dụng hiệu quả mặt nước để phát triển nuôi cá lồng thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Tăng quy mô sản xuất và chuyển đổi sang lồng nuôi công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, bền vững và thân thiện với môi trường sinh thái; đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài tỉnh; giải quyết việc làm, ổn định sinh kế, nâng cao thu nhập cho người dân, đặc biệt là vùng nông thôn miền núi và ven biển.
Tại Đề án phát triển nuôi cá lồng tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, tỉnh Thanh Hóa chú trọng đến việc phát triển nuôi cá lồng phù hợp với phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng vùng huyện và quy hoạch khác có liên quan, đảm bảo hiệu quả kinh tế, an toàn, bền vững môi trường và thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu. Áp dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại ở các vùng tập trung theo hướng công nghiệp, sử dụng công nghệ lồng, kỹ thuật nuôi tiên tiến để tạo sản phẩm mang tính hàng hóa; đồng thời hoàn thiện cơ sở hạ tầng, kỹ thuật ở các vùng nuôi nhỏ lẻ hiện có để nâng cao hiệu quả.
Theo đó, địa phương này đặt mục tiêu đến năm 2025: Diện tích nuôi cá lồng đạt 200 ha, 3.700 lồng, thể tích lồng nuôi 335.000m3; trong đó: nước ngọt với diện tích 150 ha, 3.000 lồng, thể tích lồng nuôi 265.000m3 ; nước mặn với diện tích 50 ha, 700 lồng, thể tích lồng nuôi 70.000m3. Sản lượng nuôi đạt 6.650 tấn, trong đó: nuôi nước ngọt 5.250 tấn; nuôi nước mặn 1.400 tấn; giá trị sản xuất đạt 500 tỷ đồng/năm. Giải quyết việc làm cho trên 5.800 lao động thường xuyên, trên 20.000 lao động thời vụ và dịch vụ phục vụ nuôi cá lồng; 100% cơ sở nuôi cá lồng nắm được kiến thức về kỹ thuật nuôi cá lồng và bảo vệ môi trường sinh thái. 50% cơ sở nuôi cá lồng áp dụng quy trình sản xuất nuôi trồng thủy sản tốt (VietGAP) hoặc tương đương.
Nuôi cá lồng tại tỉnh Thanh Hóa đang phát huy hiệu quả mang lại nguồn lợi kinh tế ổn định.
Định hướng đến năm 2030: Diện tích nuôi cá lồng đạt 310,5 ha, 5.340 lồng, thể tích lồng nuôi 523.000m3; trong đó: nước ngọt với diện tích 222,5 ha, 3.840 lồng, thể tích lồng nuôi 373.000m3; nước mặn với diện tích 88 ha, 1.500 lồng, thể tích lồng nuôi 150.000 m3. Sản lượng nuôi cá lồng đạt 13.600 tấn, trong đó: nuôi nước ngọt 9.100 tấn; nuôi nước mặn 4.500 tấn; giá trị sản xuất đạt 1.200 tỷ đồng/năm. Giải quyết việc làm cho trên 9.200 lao động thường xuyên, trên 30.000 lao động thời vụ và dịch vụ phục vụ nuôi cá lồng; 100% cơ sở nuôi cá lồng áp dụng quy trình sản xuất nuôi trồng thủy sản tốt (VietGAP) hoặc tương đương.
Trong đó, UBND tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng tập trung phát triển nuôi cá lồng nước ngọt và cá lồng nước mặn. Cụ thểm đối với phát triển nuôi cá lồng nước ngọt: Tập trung vào các đối tượng như cá Chép, cá Trắm cỏ, cá Trắm đen, cá Diêu hồng, cá Rô phi, cá Tầm, các loài cá da trơn (cá Lăng, cá Nheo,…), phát triển các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, đặc sản, loài bản địa, như: cá Bỗng, cá Anh Vũ, cá Ngạnh, cá Chiên…Chỉ phát triển nuôi cá lồng trên các hồ thủy lợi, hồ thủy điện có diện tích mặt nước trên 50 ha.
Tập trung phát triển nuôi cá theo hướng công nghiệp, sử dụng lồng bè bằng vật liệu mới, thân thiện với môi trường, như: sắt, inox, HDPE,…. Từng bước chuyển đổi lồng bè truyền thống (tre, gỗ,…) sang lồng nuôi bằng vật liệu mới, chuyển đổi từ sử dụng thức ăn truyền thống sang sử dụng hoàn toàn thức ăn công nghiệp để tăng năng suất, hiệu quả cao, giảm ô nhiễm môi trường.
Đề án hướng tới mục tiêu chuyển đổi sử dụng lồng bè bằng vật liệu mới, thân thiện với môi trường
Đối với phát triển nuôi cá lồng nước mặn: Tập trung các đối tượng có giá trị kinh tế như cá Song, cá Chim vây vàng, cá Hồng, cá Tráp, cá Vược, cá Giò, cá Cảnh biển, tôm Hùm, ốc Hương,… Tổ chức lại sản xuất các vùng nuôi lồng gần bờ, chuyển đổi các mô hình sản xuất khu vực eo ngách ra khu vực biển hở với quy mô nuôi công nghiệp. Nuôi lồng tập trung quy mô công nghiệp tại vùng vịnh bán kín ở đảo Hòn Mê - thị xã Nghi Sơn; tổng diện tích bè nuôi chiếm khoảng 5- 6% tổng diện tích khu vực quy hoạch (88 ha).
Nuôi theo phương thức công nghiệp, tiên tiến; từng bước sử dụng đại trà các mô hình nuôi biển hiện đại, sử dụng lồng nổi bằng nhựa cứng HDPE, Composite, lồng nổi bằng kết cấu thép, các loại lồng chìm và bán chìm, có kết cấu và vật liệu đa dạng, thích hợp với từng đối tượng nuôi, chịu được biến động thời tiết và sóng, bão. Phát triển nuôi có chứng nhận, chỉ dẫn địa lý, có thể truy xuất nguồn gốc. Áp dụng công nghệ nuôi tiên tiến để bảo vệ môi trường, sử dụng thức ăn công nghiệp, có khu vực thu gom, xử lý chất thải trên lồng bè, giảm và tiến tới không sử dụng hóa chất, kháng sinh trong nuôi cá.
Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả các mục tiêu đề ra, UBND tỉnh nhấn mạnh đến nhiệm vụ phát triển hệ thống sản xuất giống. Trong đó, chú trọng nâng cấp, mở rộng các cơ sở sản xuất giống thủy sản nước ngọt chất lượng cao hiện có để chủ động nguồn giống thủy sản cho nuôi trồng thủy sản nước ngọt nói chung và nuôi cá lồng nói riêng. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong chọn, tạo và nhân giống thủy sản; sản xuất các giống thủy sản mới có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh, ưu tiên phát triển giống nuôi chủ lực, giá trị kinh tế cao ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong quản lý, sản xuất giống thủy sản.
Đồng thời, phát triển công nghiệp chế biến thủy sản dựa trên nhu cầu, tín hiệu của thị trường với quy mô hàng hóa lớn, đóng vai trò chủ đạo trong việc dẫn dắt, thúc đẩy phát triển chuỗi sản xuất thủy sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Duy trì các thị trường hiện tại và mở rộng xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng (Hàn Quốc, Nhật Bản, Châu Âu, Mỹ,...), chuyển dần từ xuất khẩu tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc và tiếp cận, mở rộng các thị trường khác.
Vũ Hải
Bình luận