Hotline: 0941068156

Thứ tư, 26/11/2025 23:11

Tin nóng

Đảm bảo vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh sau mưa lũ

Việt Nam thuộc nhóm dẫn đầu châu Á về phát triển rừng trồng

Hải Phòng: Đa cổ thụ hơn 200 năm tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Quéo cổ thụ 400 năm tuổi ở Phù Đổng được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Ứng phó biến đổi khí hậu: Đã có 66 nước gửi ‘Báo cáo đóng góp do quốc gia tự quyết định’

COP30: Nhiều nội dung quan trọng chưa được thể hiện trong thỏa thuận cuối cùng

G20: Việt Nam đề xuất 3 bảo đảm chiến lược thúc đẩy tăng trưởng bền vững

COP30: Các quốc gia cần thúc đẩy giảm phát thải và hỗ trợ năng lượng tái tạo

12 cổ thụ ở Bắc Ninh được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam quyết tâm triển khai tốt các nhiệm vụ trong giai đoạn mới

Kết luận của Bộ Chính trị về khắc phục hậu quả mưa, lũ đặc biệt lớn ở miền Trung

[COP30] 'Không thể chấp nhận một kết quả COP thiếu lộ trình chuyển dịch năng lượng và có trật tự'

COP30: Nông nghiệp và các mô hình sản xuất bền vững trở thành chủ đề trọng tâm

COP30: Việt Nam luôn ưu tiên bảo vệ và phục hồi các hệ thống carbon xanh

Thực hiện ngay các biện pháp khẩn cấp ứng phó mưa lũ đặc biệt lớn

COP30: Việt Nam đề xuất 4 điểm chính về biến đổi khí hậu

Nhiều cây cổ thụ tại Ninh Bình được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Hưng Yên: 2 cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

3 bồ đề cổ thụ ở Tiến Thắng được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Triển khai các biện pháp ứng phó khẩn cấp mưa lũ khu vực miền Trung

Thứ tư, 26/11/2025

Quan trắc môi trường, phòng ngừa dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản

Thứ tư, 26/11/2025 14:11

TMO - Tỉnh Đắk Lắk tiếp tục triển khai kế hoạch quan trắc cảnh báo và giám sát môi trường vùng nuôi trồng thủy sản với đối tượng nuôi là sản phẩm chủ lực, có giá trị kinh tế.    

Với đường bờ biển dài và nhiều đầm, vịnh, tỉnh Đắk Lắk có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, toàn tỉnh có tổng diện tích nuôi trồng thủy sản ước đạt 9.578 ha, đạt 92,9% kế hoạch năm 2025. Địa phương này hiện có khoảng 186.036 lồng nuôi thủy sản biển với 166.168 lồng nuôi tôm hùm, 9.057 lồng nuôi cá biển, 45 lồng nuôi các loại cá khác.

Các lồng bè nuôi trồng thủy sản trên biển phân bố tại các khu vực đầm Cù Mông, vịnh Xuân Đài, vịnh Vũng Rô…Sản lượng nuôi trồng thủy sản của tỉnh ước đạt 29.221 tấn, đạt 69,28% kế hoạch, tăng 4,77% so với cùng kỳ năm 2024. Cá biển khoảng 1.567 tấn; tôm hùm 1.651 tấn; tôm thẻ chân trắng 9.542 tấn; tôm sú 221 tấn;…

Để tiếp tục nâng cao giá trị nuôi trồng thủy sản, trong giai đoạn 2026-2030, Đắk Lắk tiếp tục triển khai công tác quan trắc, cảnh báo môi trường tại một số vùng nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh với đối tượng nuôi là sản phẩm chủ lực, có giá trị kinh tế, sản lượng hàng hóa cao của tỉnh như: Tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm hùm, cá tầm, cá rô phi và cá nuôi lồng bè nước ngọt. Qua đó, nhằm kịp thời cảnh báo các sự cố về môi trường nuôi trồng thủy sản (NTTS) và hướng dẫn biện pháp xử lý cho người nuôi. 

Triển khai quan trắc, cảnh báo môi trường là giải pháp để kiểm soát chất lượng nguồn nước trong nuôi trồng thủy sản. 

Trong đó, đối với vùng nuôi tôm nước lợ (đối tượng nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú), thời gian thực hiện tháng 3 đến tháng 11 hàng năm. Địa điểm thực hiện quan trắc được thực hiện tại 03 vùng nuôi chính của tỉnh, bao gồm: Vùng nuôi tôm nước lợ quanh đầm Cù Mông; vùng nuôi tôm nước lợ quanh đầm Ô Loan; vùng nuôi NTTS hạ lưu sông Bàn Thạch.

Số điểm quan trắc là 08 điểm, trong đó: 06 điểm vùng nước cấp (Vùng nuôi tôm nước lợ quanh đầm Cù Mông; vùng nuôi tôm nước lợ quanh đầm Ô Loan; vùng nuôi NTTS hạ lưu sông Bàn Thạch) và 02 ao nuôi tôm nước lợ đại diện vùng nuôi được lựa chọn từ 02 trong số 03 vùng nuôi tôm nước lợ chính của tỉnh. Đối với mẫu nước nguồn cấp tần suất quan trắc: 02 đợt/tháng (18 đợt/năm); Mẫu nước trong ao nuôi, tần suất quan trắc: 02 đợt/tháng. 

Đối với vùng nuôi tôm hùm lồng, bè, công tác quan trắc môi trường được thực hiện tại vùng NTTS lồng, bè thuộc đầm Cù Mông và vịnh Xuân Đài với 3 điểm quan trắc mỗi điểm thu mẫu, phân tích theo 2 tầng nước (tầng đáy cách đáy 0,5 - 1m và tầng giữa cách mặt từ 2 - 3m) và 01 mẫu trầm tích tầng đáy tương ứng. Đối với mẫu nước vùng nuôi tôm hùm, thực hiện quan trắc trong tháng 3, 4 và tháng 9 đến tháng 11 tần suất quan trắc 02 đợt/tháng; tháng 5 đến tháng 8 tần suất quan trắc 04 đợt/tháng (26 đợt/năm). Mẫu trầm tích tần suất quan trắc 02 đợt/tháng (18 đợt/năm). 

Ngoài ra, đối với vùng nuôi trồng thủy sản nước ngọt địa điểm quan trắc tại vùng nuôi cá rô phi thương phẩm tại phường Ea Kao; vùng nuôi cá lồng, bè trên sông Krông Ana; vùng nuôi cá lồng, bè trên hồ thủy điện Srêpốk 3; khu vực nuôi cá tầm tại xã Nam Ka. Công tác quan trắc được thực hiện tại 07 điểm (04 điểm tại khu vực nguồn nước cấp; 03 điểm đại diện cho các ao, lồng/bè nuôi thủy sản (thuộc vùng nuôi: Ea Kao, Krông Ana và Srêpốk 3). Mẫu nước vùng nuôi triển khai quan trắc 02 đợt/tháng (18 đợt/năm). Mẫu nước trong ao nuôi/lồng nuôi quan trắc 02 đợt/tháng. 

Các vùng nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm hùm, cá tầm, cá rô phi và cá nuôi lồng bè nước ngọt... được đẩy mạnh quan trắc, cảnh báo môi trường. 

Khi môi trường có diễn biến bất thường (mưa, nắng nóng kéo dài); khi khu vực NTTS xảy ra dịch bệnh; khi môi trường vùng nuôi có dấu hiệu ô nhiễm, tích tụ chất hữu cơ; tảo nở hoa tại vùng nuôi tôm hùm, vùng nuôi tôm nước lợ, vùng nuôi cá nước ngọt tập trung của tỉnh. Kết quả quan trắc, thông báo định kỳ, báo cáo tổng hợp hàng quý và hàng năm được lưu trữ bằng văn bản giấy, văn bản số; cập nhật thông tin lên hệ thống cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thủy sản. 

Để triển khai hiệu quả nhiệm vụ trên, Sở Nông nghiệp và Môi trường được giao tham mưu UBND tỉnh lựa chọn hình thức phù hợp (đấu thầu rộng rãi, đặt hàng hoặc giao nhiệm vụ…) để thực hiện công tác quan trắc môi trường nuôi trồng thủy sản theo đúng quy định; Chủ trì, phối hợp thực hiện chức năng quản lý, bảo vệ môi trường các vùng NTTS nói riêng và các vùng đầm, vịnh, biển nói chung; quản lý các nguồn xả thải vào đầm, vịnh, nhất là nguồn thải từ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất ven đầm, vịnh, biển.

Tổng hợp kết quả thực hiện, định kỳ báo cáo UBND tỉnh và Bộ Nông nghiệp và Môi trường theo quy định; Triển khai hướng dẫn các biện pháp phòng trị bệnh trong NTTS, hướng dẫn các biện pháp xử lý, quản lý thủy sản nuôi bị dịch bệnh, không xả thải nước thải, thủy sản bệnh, chết chưa qua xử lý vào môi trường tự nhiên gây ô nhiễm môi trường chung.

UBND các xã/phường: Tổ chức hướng dẫn, vận động các cơ sở NTTS thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường và phòng ngừa dịch bệnh cho thủy sản nuôi; tổ chức thu gom rác thải, chất thải, thức ăn dư thừa từ các hoạt động NTTS; tuân thủ mùa vụ thả nuôi theo hướng dẫn của Sở Nông nghiệp và Môi trường; sử dụng thức ăn, chế phẩm sinh học, kháng sinh, hóa chất nằm trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam, thông tin kịp thời cho cơ quan chức năng khi môi trường vùng nuôi có những biến đổi bất thường hoặc tình hình dịch bệnh.

Chủ động bố trí nguồn ngân sách của địa phương để thực hiện công tác bảo vệ môi trường tại các vùng ven đầm, vịnh và các vùng NTTS. Triển khai hoạt động thu gom chất thải từ nuôi trồng thủy sản ở lồng bè đưa vào bờ để được xử lý theo quy định.

Các cơ sở sản xuất giống, NTTS thương phẩm có trách nhiệm giám sát chất lượng nước cấp, nước thải của cơ sở sản xuất. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý NTTS trong quan trắc, giám sát và cảnh báo môi trường NTTS. Theo dõi các diễn biến bất thường của môi trường NTTS và báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước về NTTS tại địa phương./.

 

Lê Phương

 

 

 

 

 

 

Thích và chia sẻ bài viết:

Bình luận

    Bình luận của bạn

    cmt
      Web đang chạy kỹ thuật
      Zalo phone Hotline