Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 23/11/2024 14:11
Thứ năm, 25/01/2024 14:01
TMO - Việt Nam có nhiều cơ hội, thuận lợi phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG). Đây là lĩnh vực thu hút sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp và các nhà đầu tư, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ thị trường điện khí LNG. Bên cạnh cơ hội, phát triển điện khí LNG tại Việt Nam hiện đối diện những khó khăn, vướng mắc cần sớm được giải quyết.
Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) xác định rõ một trong những mục định hướng phát triển điện lực quốc gia là khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng hóa thạch trong nước kết hợp với nhập khẩu các nguồn số lượng nhập khẩu, giảm dần tỷ lệ nhiệt điện than, ưu tiên phát triển điện khí trong nước, phát triển các nguồn điện khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) nhập khẩu với quy mô phù hợp. Cơ cấu nguồn định hướng đến năm 2030 nhiệt điện khí trong nước đạt 14.930 megawatt (MW), chiếm 9,9 %, nhiệt điện khí thiên nhiên hóa lỏng và 22.400 megawatt (MW) đạt 14,9 %...
Quy hoạch điện VIII đặt mục tiêu chuyển đổi 18 GW điện than vào năm 2030 được thay thế bằng 14 GW điện khí LNG và 12-15 GW nguồn năng lượng tái tạo. Như vậy, đến năm 2030 sẽ phát triển 23.900 MW điện khí, tương đương tỷ trọng hơn 14,9% cơ cấu nguồn điện. Nhu cầu nhập khẩu LNG sẽ tăng lên, đạt khoảng 14-18 tỷ m3 vào năm 2030 và khoảng 13-16 tỷ m3 vào năm 2045.
Bên cạnh cơ hội, phát triển điện khí LNG tại Việt Nam hiện đối diện những khó khăn, vướng mắc cần sớm được giải quyết.
Việc phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng giúp tăng hiệu quả trong sản xuất điện, giảm sử dụng nhiệt điện than, giảm phát thải, bảo vệ môi trường hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước vì điện khí thiên nhiên hóa lỏng là dạng năng lượng có phát thải thấp, đang có xu hướng sử dụng rộng rãi, đặc biệt là khi Việt Nam đã tham gia vào cam kết quốc tế giảm phát thải gây ô nhiễm, sau Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 21).
Phát triển điện khí LNG góp phần bảo đảm cung cấp điện ổn định cho hệ thống, giảm thiểu phát thải khí nhà kính tác động đến môi trường; là nguồn dự phòng khi tỷ trọng của các nguồn điện năng lượng tái tạo tăng cao trong cơ cấu nguồn, không gặp tình trạng gián đoạn và phụ thuộc vào thiên nhiên như điện gió hay điện mặt trời. Nhiệt điện khí LNG cũng là giải pháp hạn chế phụ thuộc vào các nhà máy nhiệt điện than vốn chiếm tỷ lệ khá cao trong hệ thống hiện nay; đặc biệt, giúp ngành điện phát triển xanh hơn, góp phần thực hiện cam kết mạnh mẽ tại hội nghị COP26.
Tuy nhiên, việc chuyển dịch sang hướng phát triển năng lực xanh sạch, trong đó có phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng đối diện với nhiều thách thức. Các dự án điện khí thiên nhiên hóa lỏng thường đòi hỏi các nguồn vốn lớn, trong khi đó, khuôn khổ pháp lý hiện hành cho các dự án khí thiên nhiên hóa lỏng ở Việt Nam chưa được xây dựng hoàn chỉnh, thậm chí Việt Nam hiện chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan, địa điểm thiết kế, xây dựng, vận hành và các cơ sở hạ tầng phục vụ cho khí thiên nhiên hóa lỏng nhập khẩu… Do đó, việc phát triển điện khi khí thiên nhiên hóa lỏng rất cần sự trao đổi, chia sẻ, lắng nghe giữa các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, địa phương, chuyên gia, nhà nghiên cứu để tiếp tục cụ thể hóa các hành động, chính sách và tổ chức thực hiện nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất…
Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, các quy định để hỗ trợ cho phát triển nhiệt điện khí, đảm bảo phát triển điện khí phù hợp với tình hình hệ thống điện.
Thông tin từ Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương cho biết, hiện có 15 nhà máy điện sử dụng khí với tổng công suất khoảng 8.000MW, chiếm khoảng 10% tổng sản lượng điện quốc gia. Do nhu cầu sử dụng khí tăng cao, khả năng khai thác có xu hướng giảm. Không đủ nguồn cung phải chuyển đổi từ sử dụng khí sang sử dụng LNG: Tổng nguồn điện khí hiện có sẽ chuyển đổi sang sử dụng LNG trong giai đoạn 2024 - 2030 là khoảng 4.380MW, sau 2030 là 2.700MW.
Việc chuyển đổi sang sử dụng LNG sẽ tăng kinh phí đầu tư và gián đoạn đến sản xuất một giai đoạn nhất định. Khó khăn trong nhập khẩu LNG chủ yếu từ Australia, Quata, Mỹ cũng là trở ngại. Trong dài hạn cần xem xét nhập khẩu thêm từ Nga và các nước Trung Đông. Cùng với đó, hạ tầng nhập khẩu LPG với quy mô lớn chưa sẵn sàng, tính chủ động trong sản xuất chưa thực sự bền vững, chưa sẵn sàng với thị trường nhập khẩu khí LNG với quy mô lớn. Đến nay, Việt Nam vẫn chưa có cơ chế hay quy định cụ thể cho việc phát triển điện khí LNG, cũng như chưa có quy định hay tiêu chuẩn trong việc xây dựng kho cảng và nhập khẩu khí LNG. Đặc biệt, thách thức lớn nhất hiện nay của nhà máy điện khí LNG vẫn là giá thành cao hơn rất nhiều so với giá bán lẻ điện mà Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) bán ra cho nền kinh tế.
Các chuyên gia cho rằng, Chính phủ cần sớm phê duyệt kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII để triển khai các khâu nguồn - lưới đồng bộ. Mở rộng các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ để cung cấp thêm trữ lượng và sản lượng khai thác ở các khu vực tiềm năng, sâu và xa bờ nhằm đáp ứng kế hoạch phát triển công nghiệp khí giai đoạn tới. Xây dựng chiến lược, kế hoạch cụ thể cho vấn đề nhập khẩu LNG để có thể hình thành thị trường LNG; tập trung ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu LNG.
Hoàn thiện các cơ chế chính sách liên quan đến giá và cơ chế giá bởi cơ chế bán khí cho các khách hàng chưa hoàn toàn thị trường (ngoại trừ khí bán cho các hộ công nghiệp). Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, các quy định để hỗ trợ cho phát triển nhiệt điện khí, đảm bảo phát triển điện khí phù hợp với tình hình hệ thống điện; Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế quản lý vận hành chuỗi khí - điện nhằm thúc đẩy triển khai các dự án đầu tư điện LNG theo hình thức đầu tư (IPP) quy mô lớn…
Bên cạnh đó, muốn phát triển điện khí LNG theo Quy hoạch điện VIII phải giải quyết một số vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách. Trong đó, cần quy hoạch đồng bộ, tập trung các dự án kho cảng nhập khẩu LNG để tiết kiệm nguồn lực xã hội, phát triển kinh tế và từ đó thúc đẩy thị trường LNG trong nước phát triển. Về mặt cơ chế chính sách cần phải rõ ràng, khả thi, thực tế, bảo đảm quản lý và quy định hiệu quả, xây dựng hệ thống phân phối và tiếp cận thị trường và thúc đẩy hợp tác quốc tế...
Thùy Minh
Bình luận