Hotline: 0941068156

Thứ hai, 29/04/2024 08:04

Tin nóng

Quần thể 53 cây cổ thụ tại Bình Dương được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Quần thể chè Shan tuyết cổ thụ ở Sơn La được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cây nghiến Di sản - Tài sản vô giá của núi rừng Lâm Bình

Tam Kỳ (Quảng Nam): Đón Bằng công nhận Cây Di sản Việt Nam đối với quần thể 9 cây sưa cổ thụ

Cần cơ chế bảo tồn, phát huy giá trị Cây Di sản Việt Nam

Phát hiện 6.978 vụ vi phạm về môi trường trong 3 tháng đầu năm 2024

Hải Dương: Cây muồng ràng ràng 300 năm tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Thanh Oai (Hà Nội): 5 cây cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Giờ Trái đất 2024: Cả nước tiết kiệm được 428.000 kWh

Quần thể 9 cây sưa cổ thụ ở Tam Kỳ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Hải Phòng: Bồ đề và bàng cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

6 cổ thụ ở Tam Nông được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cuộc thi viết về Cây Di sản Việt Nam: Lan tỏa thông điệp bảo vệ cảnh quan, môi trường ứng phó biến đổi khí hậu

Phát động cuộc thi viết về Cây Di sản Việt Nam

Khẩn trương ứng phó cao điểm xâm nhập mặn

Cẩm Phả (Quảng Ninh): Nhiều cây cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Vĩnh Phúc: Duối cổ thụ hơn 700 tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cây Di sản - Báu vật nghìn năm tuổi giữa núi rừng Na Hang

Hàng trăm cây cổ thụ ở Lạng Sơn được công nhận quần thể Cây Di sản Việt Nam

Tuyên Quang: 2 nghiến cổ thụ hơn 1.000 năm được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Thứ hai, 29/04/2024

Phát triển bền vững các giá trị của hệ sinh thái rừng

Thứ tư, 15/11/2023 13:11

TMO - Hệ sinh thái rừng đóng vai trò quan trọng trong đời sống, theo đó rừng cung cấp nguyên liệu, lâm sản ngoài gỗ, phát triển du lịch, dịch vụ môi trường rừng, hấp thụ và lưu giữ các bon rừng, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, xã hội thúc đẩy kinh tế phát triển ổn định, bền vững…

Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, Việt Nam có hệ sinh thái rừng vô cùng phong phú, đa dạng với diện tích 14,74 triệu ha. Trong đó, rừng tự nhiên chiếm 10,17 triệu ha, rừng sản xuất 4,57 triệu ha. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 42,02% và có khoảng 25 triệu người dân sống phụ thuộc vào rừng. Hiện cả nước có khoảng 25 triệu người dân sống phụ thuộc vào rừng; trong đó có 1,15 triệu hộ gia đình và cộng đồng quản lý 4,1 triệu ha, 136 công ty lâm nghiệp quản lý 1,7 triệu ha, 383 ban quản lý rừng đặc dụng quản lý 5,2 triệu ha, 24,284 người thuộc lực lượng bảo vệ rừng và 6.234 doanh nghiệp chế biến với hơn 500 nghìn lao động…

Rừng đang cung cấp 31 triệu m3 gỗ nguyên liệu đáp ứng 75,6% nhu cầu sản xuất, phục vụ xuất khẩu bình quân hằng năm đạt 17 tỷ USD. Ngoài ra, cả nước có khoảng 2,6 triệu ha lâm sản ngoài gỗ phục vụ xuất khẩu hơn 500 triệu USD mỗi năm. Cùng với đó, các hoạt động du lịch (doanh thu khoảng 300 tỷ đồng/năm), dịch vụ môi trường rừng (thu 1.300 tỷ đồng/năm), dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon rừng đang có tiềm năng lớn đóng góp trung bình đạt doanh thu 4.000 tỷ đồng /năm. Những giá trị của hệ sinh thái không dừng lại ở yếu tố phi vật chất mà còn mang lại giá trị to lớn về vật chất và môi trường sống như cung cấp nguyên liệu, cung cấp lâm sản ngoài gỗ, du lịch, dịch vụ môi trường rừng, hấp thụ và lưu giữ carbon rừng.

Đáng chú ý, khai thác các giá trị du lịch một cách bền vững đang là hướng đi rất hiệu quả tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, từ đó phát triển sinh kế, nâng cao thu nhập cho cộng đồng sống gần rừng, góp phần bảo vệ tài nguyên rừng, lan tỏa thông điệp về tình yêu thiên thiên. Trong năm 2022, đã có 3,1 triệu lượt khách đến tham quan tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, mang lại 310 tỷ đồng. Nhiều vườn quốc gia cũng phối hợp với cộng đồng cư dân bản địa sống gần rừng xây dựng các điểm du lịch cộng đồng.

Hệ sinh thái rừng đóng vai trò quan trọng, trong đó góp phần ổn định, nâng cao cuộc sống của người dân. 

Tuy nhiên, theo đánh giá của Cục Lâm nghiệp việc khai thác, sử dụng và phát huy các giá trị đa dụng của rừng còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng các giá trị to lớn của hệ sinh thái rừng. Trong đó, có những khó khăn đến từ việc thiếu quy hoạch vùng trồng gỗ lớn tập trung với năng suất, chất lượng gỗ chưa cao; việc tổ chức sản xuất theo chuỗi còn khó khăn; chưa có quy định về sở hữu, đo đếm carbon rừng; mức thu dịch vụ môi trường rừng còn chưa tương xứng với giá trị mang lại, còn thiếu đối tượng...

Đề án phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được xây dựng nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên rừng; tạo việc làm, tăng thu nhập, ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số, người dân miền núi, người làm nghề rừng và người dân sống gần rừng. Từ đó, góp phần phát triển kinh tế-xã hội, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống, danh lam thắng cảnh và tri thức bản địa của cộng đồng địa phương; bảo đảm an ninh, quốc phòng.

Cụ thể: Phát triển bền vững nguồn cung nguyên liệu gỗ đáp ứng tối thiểu 80% (năm 2030) và 100% (năm 2050) nhu cầu. 100% gỗ và sản phẩm gỗ có sử dụng nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp. Giá trị lâm sản ngoài gỗ, dược liệu được chế biến tăng gấp 1,5 lần so với năm 2020 (năm 2030) và tăng gấp 2 lần vào năm 2050. Giá trị xuất khẩu chiếm tỷ trọng từ 10-15% vào năm 2030 và 25% vào năm 2050 trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu lâm sản.

Bên cạnh đó, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất nông lâm nghiệp kết hợp hiệu quả, góp phần tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích canh tác từ 20% trở lên ngoài giá trị gỗ rừng trồng từ năm 2030. Phát triển dịch vụ môi trường rừng phấn đấu đảm bảo nguồn thu tăng trưởng ổn định, bình quân 5%/năm. Duy trì ổn định và phát triển diện tích rừng đặc dụng đến năm 2030 tăng từ 10-15% so với năm 2020; xây dựng được kế hoạch hành động bảo tồn các loài động vật rừng nguy cấp, quý hiếm tại Việt Nam. Phát triển các hoạt động du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí bền vững, phấn đấu nguồn thu tăng 50% đến năm 2030 và 100% năm 2050.

Ngoài ra, thu hút lực lượng lao động trong lâm nghiệp là người dân tộc thiểu số đến năm 2030 chiếm trên 50%. Tỷ lệ lao động được đào tạo, tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật đạt từ 40% trở lên (năm 2030) và 70% (năm 2050). Phấn đấu nâng mức thu nhập bình quân người lao động dân tộc thiểu số đến năm 2030 tăng gấp 1,5 lần và đến năm 2050 lăng gấp 2 lần so với mức thu nhập tại thời điểm 2025.

Đề án phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được xây dựng nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên rừng. 

Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, đề án sẽ là bước phát triển mới của ngành lâm nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay nhiều nội dung về khai thác giá trị rừng đã có quy định pháp luật, nhưng cũng có nhiều nội dung chưa có. Do đó, mỗi địa phương có thể nghiên cứu đến phương án xây dựng một mô hình để làm cơ sở thực tiễn, xem xét, góp ý, kiến nghị điều chỉnh các quy định pháp luật cho phù hợp.

Tuy nhiên, Bộ NN&PTNT lưu ý, phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng mục tiêu cao nhất là bảo vệ được rừng và mang lại nhiều lợi ích tốt đẹp cho cộng đồng dân cư gắn với rừng. Do đó, các nội dung của đề án cần dành sự ưu tiên cho người dân sống quanh rừng và lực lượng quản lý, bảo vệ rừng để giúp họ có thêm động lực, niềm tin gắn bó lâu dài với rừng.

Đối với hoạt động khai thác du lịch dưới tán rừng, đề án phải giúp các địa phương thay đổi được tư duy phát triển du lịch dưới tán rừng không chỉ có một giải pháp duy nhất là mời gọi các doanh nghiệp tham gia đầu tư mà có thể xây dựng chính sách để tập hợp, tổ chức cho cộng đồng người dân sống gần rừng phát triển các loại hình du lịch không tác động, thay đổi hiện trạng rừng (chỉ vào rừng tham quan, trải nghiệm, các hoạt động khác tổ chức ngoài rừng). Bên cạnh đó, các ban quản lý rừng cũng nên nghiên cứu hình thành trung tâm du lịch do chính mình quản lý, đẩy mạnh hợp tác công tư để phát triển hiệu quả, bền vững du lịch rừng.

Về phát triển dược liệu dưới tán rừng, hiện nay việc trồng dược liệu của người dân, nhất là đồng bào các dân tộc miền núi mới chỉ dừng ở việc xóa đói, giảm nghèo. Do đó, đề án cần xây dựng lộ trình, giải pháp dài hơi, hướng đến hình thành chuỗi ngành hàng dược liệu. Tuy nhiên, muốn làm được điều này, các viện nghiên cứu cần tập trung bảo tồn, chọn tạo được những bộ giống chất lượng, quy trình canh tác tiên tiến. Các đơn vị của bộ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương liên quan kịp thời tháo gỡ những quy định vướng mắc, tạo thuận lợi cho người dân phát triển ổn định hoạt động này.

 

 

Đức Hoàng 

 

 

 

 

Thích và chia sẻ bài viết:

Bình luận

    Bình luận của bạn

    cmt
      Web đang chạy kỹ thuật
      Zalo phone Hotline