Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 23/11/2024 21:11
Thứ ba, 14/11/2023 07:11
TMO - Hiện nay, hệ thống các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Sơn La đang phát huy hiệu quả, bảo đảm phục vụ sản xuất nông nghiệp, góp phần bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
Hệ thống công trình thủy lợi tỉnh Sơn La hiện nay gồm có 2.697 công trình, trong đó: 110 hồ chứa, 1.149 đập xây, 190 cống, cửa lấy nước, 03 kênh tiêu thoát lũ, 105 kênh mương dẫn nước, 06 trạm bơm nhỏ, 94 đập rọ thép, 1.035 phai tạm, 05 công trình tưới cho cây trồng cạn. Tổng chiều dài kênh mương là 3.183,44 km, trong đó: Kênh đã được kiên cố 2.087,16 km; Kênh chưa được kiên cố 1.096,27 km. Đảm bảo cấp nước cho 34.634,81 ha gồm: 30.781,00 lúa, 1.434,44 ha hoa mầu và 1.184,34 ha thủy sản, ngoài ra còn cấp nước phục vụ cho các nhu cầu dùng nước khác. Tiêu thoát nước cho khu vực nông thôn và đô thị trên 64.500 ha.
Trong đó, hệ thống quản lý khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi đã được kiện toàn đồng bộ. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý tài sản 03 công trình thủy lợi lớn và vừa; Công ty TNHH MTV quản lý, khai thác công trình thủy lợi Sơn La được giao quản lý, khai thác 2.694 công trình thủy lợi, gồm 12 chi nhánh trực thuộc Công ty đặt tại các huyện, thành phố. Cấp xã, phường thành lập các tổ thủy lợi cơ sở hoạt động dưới sự quản lý của xã, bản; Toàn tỉnh hiện có 1.401 tổ thủy lợi cơ sở với 3.406 thành viên tham gia quản lý khai thác công trình thủy lợi.
UBND tỉnh yêu cầu các đơn vị, địa phương phát huy hiệu quả hoạt động của hệ thống thủy lợi đa mục tiêu. Ảnh: NY.
Trong những năm qua, hệ thống kết cấu hạ tầng thủy lợi trên địa bàn tỉnh Sơn La được xây dựng tương đối hoàn chỉnh, việc phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng và tưới tiên tiến, tiết kiệm nước đã phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh lương thực, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường
Bên cạnh việc đảm bảo cấp nước tưới chủ động cho trên 34.000 ha diện tích đất nông nghiệp, các công trình thủy lợi đã góp phần ngăn lũ, tiêu thoát nước, giảm được các tổn thất về người, tài sản và phục vụ các hoạt động kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện để đa dạng hóa cây trồng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, nâng cao hiệu suất sử dụng đất, cải tạo đất, cải tạo môi trường, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới về canh tác làm tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích. Nhờ có hệ thống công trình thủy lợi đã tạo điều kiện phân bố lại nguồn nước tự nhiên, cải tạo đất, điều hòa dòng chảy, duy trì nguồn nước về mùa khô, giảm lũ về mùa mưa.
Cụ thể hóa Nghị định số 77/2018/NĐ-CP ngày 16/5/2018 của Chính phủ Quy định hỗ trợ phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng và tưới tiên tiến, tiết kiệm nước, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 127/2019/NQ-HĐND ngày 06/12/2019 Quy định mức hỗ trợ phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng và tưới tiên tiến, tiết kiệm nước trên địa bàn tỉnh Sơn La. Để tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã ban hành văn bản chỉ đạo, đôn đốc, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các Sở, ban, ngành, địa phương.
Thời gian qua, các địa phương trên địa bàn tỉnh triển khai nhiều giải pháp nhằm phát huy hiệu quả công trình thủy lợi. Theo đó, tại huyện Phù Yên có gần 250 công trình thủy lợi, gồm 3 hồ thủy lợi lớn chứa nước là hồ Suối Chiếu, hồ bản Lềm và hồ Suối Hòm, cùng 236 công trình thủy lợi các loại và 290km mương dẫn nước phục vụ sản xuất. Phòng NN&PTNT huyện đã tham mưu với UBND huyện chỉ đạo, giao các tổ thủy nông cơ sở thường xuyên kiểm tra, đánh giá hiện trạng công trình thủy lợi. Đồng thời, từ năm 2022 đến nay, huy động nhân dân đóng góp 15.000 ngày công lao động tham gia làm thủy lợi, tu sửa hơn 120 km mương dẫn nước, vét gần 10.000 m3 đất, đá; phát dọn cỏ trên 80 km mương dẫn nước, góp phần bảo đảm lượng nước cung cấp cho các khu sản xuất.
Bên cạnh đó, trong thời điểm mưa lũ, các địa phương trong tỉnh đã tổ chức trực ban, cử cán bộ thường trực tại công trình; vận hành thử cửa van, thiết bị phục vụ xả lũ của các hồ chứa, bố trí đủ vật tư, thiết bị dự phòng, bảo đảm kịp thời sửa chữa, thay thế khi có sự cố vận hành, sẵn sàng xử lý sự cố theo phương châm “4 tại chỗ”. Thường xuyên cập nhật tình trạng các hồ chứa, mực nước hồ lên trang thông tin điện tử của Tổng cục Thủy lợi. Phân công trực, vận hành công trình đảm bảo theo quy định; tại các đập, hồ chứa bố trí cán bộ, công nhân trực 24/24 giờ, tăng cường tuần tra, kiểm tra trong mùa mưa lũ.
Tại huyện Yên Châu có 8 hồ chứa, 185 công trình thủy lợi, với hơn 230 km mương nội đồng, phục vụ nước tưới cho gần 1.100 ha lúa 2 vụ; trên 490 ha rau màu, cây ngắn ngày; gần 1.000 ha cây công nghiệp, cây ăn quả và cấp nước cho gần 90 ha thủy sản. Huyện đã chỉ đạo Công ty TNHH MTV quản lý khai thác các công trình thủy lợi chi nhánh Yên Châu phối hợp với các xã thường xuyên kiểm tra, rà soát các công trình, các hồ chứa nước lớn và các hồ có nguy cơ mất an toàn, để kịp thời có phương án sửa chữa, nâng cấp.
Đối với các công trình đập dâng, các trạm bơm hư hỏng nhỏ, UBND huyện trích nguồn ngân sách hỗ trợ cho các xã, thị trấn, các HTX sửa chữa. Các công trình hồ đập, trạm bơm có quy mô lớn, UBND huyện đề nghị tỉnh hỗ trợ kinh phí sửa chữa, nâng cấp. Từ năm 2021 đến nay, huyện đã xây mới và sửa chữa 6 công trình thủy lợi, với tổng mức đầu tư trên 2 tỷ đồng. Các tổ thủy lợi cơ sở và nhân dân các xã, bản đóng góp trên 6.000 ngày công lao động gia cố, sửa chữa 22 công trình thủy lợi, nạo vét gần 100 km mương, đảm bảo nước tưới phục vụ sản xuất.
Hệ thống thủy lợi không chỉ góp phần đảm bảo nguồn nước cho nông nghiệp mà còn giữ vai trò quan trọng trong phòng chống thiên tai (Ảnh minh họa: ĐT).
Những năm qua, huyện Sông Mã đã tập trung huy động, lồng ghép các nguồn vốn đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các công trình thủy lợi. Đồng thời, vận động nhân dân thường xuyên tham gia duy tu, bảo dưỡng, khơi thông dòng chảy, bảo đảm nguồn nước phục vụ sản xuất. Trên địa bàn huyện có 1 hồ chứa, 185 đập xây và bê tông, 125 phai tạm, hơn 405 km mương nội đồng, đảm bảo tưới cho 3.937 ha đất sản xuất.
Khai thác tối đa năng lực tưới tiêu của các công trình thủy lợi, huyện đã chỉ đạo các đơn vị chức năng, UBND các xã phối hợp với Chi nhánh Công ty TNHH một thành viên quản lý khai thác công trình thủy lợi Sơn La tại huyện Sông Mã rà soát, đánh giá hiện trạng, hệ thống công trình bị hư hỏng do thiên tai để lập kế hoạch sửa chữa; phát động phong trào toàn dân tham gia làm thủy lợi mùa khô. Chỉ đạo UBND các xã chuẩn bị phương án phòng, chống mưa lũ theo phương châm “4 tại chỗ”, chuẩn bị vật liệu để gia cố các chân hồ, đập và những điểm xung yếu có nguy cơ bị rò rỉ nước. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, xử lý các vi phạm về bảo vệ công trình thủy lợi; tuyên truyền, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia quản lý, bảo vệ và khai thác các công trình thủy lợi.
Phát huy hiệu quả công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh, các đơn vị quản lý phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn người dân tham gia bảo vệ, không lấn chiếm hành lang. Đồng thời, tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về quản lý khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, bảo đảm an toàn hồ chứa cho cán bộ, tổ chức và cá nhân trực tiếp quản lý, khai thác công trình thủy lợi, đảm bảo phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp và đời sống sinh hoạt của nhân dân.
Theo Cục Thủy lợi (Bộ NN&PTNT), cả nước đã xây dựng được hơn 900 hệ thống thủy lợi có quy mô phục vụ từ 200 ha trở lên. Trong đó, có 122 hệ thống thủy lợi vừa và lớn (hơn 2.000 ha). Bên cạnh đó, còn có hơn 86.200 công trình thủy lợi, gồm: 6.750 hồ chứa, 592 đập dâng, 19.416 trạm bơm, 27.754 cống, 16.057 đập tạm, 291.013 km kênh mương, 16.573 công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung.
Ngoài ra, trên hầu hết các lưu vực sông đều có hệ thống hồ chứa tham gia phòng chống lũ với tổng dung tích cắt, giảm lũ cho hạ du ở các hồ chứa lớn khoảng 14,6 tỷ mét khối nước. Cùng với đó, hệ thống đê sông hiện có 9.242 km, 1.035 km kè, 1.563 cống dưới đê và hơn 30 nghìn cống bọng, 28 nghìn trạm bơm nội đồng tưới, tiêu kết hợp; hàng nghìn ki-lô-mét bờ bao, phục vụ chống lũ, ngăn mặn, tiêu thoát nước ở đồng bằng sông Cửu Long. Qua đánh giá, các công trình, hệ thống công trình thủy lợi, phòng chống thiên tai đã góp phần cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất, bảo vệ dân sinh, sản xuất, cải thiện môi trường, nhất là góp phần quan trọng đưa Việt Nam từ quốc gia thiếu lương thực, trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Bộ NN&PTNT cho biết, Quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 847/QÐ-TTg ngày 14/7/2023. Mục tiêu đến năm 2023 của Quy hoạch là cấp nước tưới chủ động cho lúa hai vụ với tần suất bảo đảm 85%, riêng vùng đồng bằng sông Hồng từ 85 đến 90%; cấp nước tưới bảo đảm cho 70% diện tích cây trồng cạn; nâng dần tần suất bảo đảm tưới cho rau màu lên 90%; bảo đảm cấp đủ nước cho gia súc, gia cầm với khoảng 10,5 triệu con; bảo đảm tiêu thoát nước qua công trình thủy lợi cho khoảng 3,5 triệu héc-ta sản xuất nông nghiệp...
Ðồng thời, quy hoạch đã gắn với các giải pháp thực hiện Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Quy hoạch cũng nhằm thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Ðảng phục vụ mục tiêu phát triển đất nước “nhanh và bền vững”, trong đó nhấn mạnh đến việc “chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên”.
Việt Nam nằm ở hạ nguồn một số con sông lớn, liên quốc gia và hiện đang phải đối mặt với các hoạt động phát triển của các nước thượng nguồn (hồ chứa trên dòng chính, gia tăng sử dụng nước, chuyển nước ra ngoài lưu vực...); thủy lợi phục vụ tái cơ cấu, chuyển đổi sản xuất ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới; nhu cầu vốn đầu tư xây dựng công trình thủy lợi, đê điều, công trình phòng chống lũ là rất lớn, cần phải rà soát, sắp xếp, bảo đảm kết nối đồng bộ với hạ tầng kỹ thuật của các ngành khác, huy động hài hòa nguồn lực để phát triển.
Hồng Nhung
Bình luận