Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 19/01/2025 18:01
Thứ năm, 21/04/2022 12:04
TMO - Theo kết quả tại Chương trình quan trắc môi trường các lưu vực sông giai đoạn 2016-2020, môi trường nước tại nhiều lưu vực sông lớn ở nước ta duy trì ở mức “trung bình” đến “tốt”. Tuy nhiên, tại nhiều đoạn sông chảy qua khu vực có hoạt động công nghiệp và đô thị hóa mạnh, chất lượng nước vẫn bị ô nhiễm.
Việt Nam là quốc gia có tài nguyên nước mặt dồi dào, hệ thống sông ngòi khá dày đặc với khoảng 3.450 sông suối có chiều dài hơn 10 km, trong đó có 13 sông lớn và 310 sông liên tỉnh nằm trong 8 lưu vực sông lớn. Bên cạnh đó, Việt Nam có khá nhiều sông xuyên biên giới như: hệ thống sông Mê Công (sông Cửu Long), sông Hồng, sông Đằng Giang-Kỳ Cùng, sông Mã, sông Cả, sông Sê San, sông Đồng Nai.
Nâng cao chất lượng nước tại các lưu vực sông góp phần bảo vệ môi trường, đảm bảo sự phát triển bền vững
Tài nguyên nước mặt khoảng 830 - 840 tỷ m3/năm, tuy nhiên, chỉ có khoảng 37% tổng lượng nước phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam, còn lại là nước từ các dòng sông liên quốc gia chảy vào. Trữ lượng nước biến động theo mùa, khoảng 80% lượng nước phát sinh trong mùa mưa; nhưng trong mùa khô, lưu lượng nước trên các sông giảm mạnh, thậm chí có nơi bị khô kiệt vì vậy, đã tác động tiêu cực đến chất lượng và trữ lượng nguồn nước các lưu vực sông nói chung, tại một số dòng sông lớn nói riêng.
Giai đoạn 2016-2020, phần lớn chất lượng nước trên các lưu vực sông lớn như: Lưu vực sông Hồng-Thái Bình, Mã, Vu Gia-Thu Bồn… duy trì ở mức tốt, trong đó tại nhiều sông, đoạn sông, nước sử dụng tốt cho mục đích cấp nước sinh hoạt.
Chất lượng nguồn nước tại lưu vực sông Nhuệ-sông Đáy vẫn chưa được cải thiện
Kết quả tính toán chỉ số chất lượng nước (WQI) dựa trên kết quả quan trắc trung bình năm giai đoạn 2016-2020 tại 9 lưu vực sông cho thấy: Chất lượng môi trường trên các lưu vực sông ở nước ta chủ yếu ở mức “trung bình” đến “tốt”. Tuy nhiên, vẫn còn một số khu vực chất lượng nước ở mức kém, một số điểm nóng về môi trường nước trên các lưu vực sông Hồng-Thái Bình, Cầu, Nhuệ-Đáy, hay trên lưu vực hệ thống sông Đồng Nai vẫn chưa được cải thiện.
Cụ thể, lưu vực sông Hồng-Thái Bình, điểm nóng nhất về ô nhiễm chất lượng nước là hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải của các địa phương: Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Dương có chiều dài là 200km. Trên lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy, các sông thuộc nội thành Hà Nội (Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét) là các điểm nóng ô nhiễm môi trường. Lưu vực sông Cầu, sông Ngũ Huyện Khê là một trong những nguồn chính gây ô nhiễm môi trường nước sông Cầu (đoạn Bắc Giang - Bắc Ninh).
Hoạt động nuôi trồng thủy sản là một trong những nguyên nhân gây ra ô nhiễm nguồn nước trên sông Đồng Nai
Lưu vực hệ thống sông Đồng Nai, ô nhiễm tập trung tại khu vực hạ lưu sông Sài Gòn, đoạn chảy qua khu vực nội đô TP. Hồ Chí Minh. Ngoài một số điểm nóng trên các lưu vực sông, đặc biệt trong giai đoạn 2016-2020, đã ghi nhận một số sự cố môi trường không chỉ gây ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, sản xuất của người dân mà còn đe dọa đến an ninh nguồn nước quốc gia.
Phần lớn các đô thị ở Việt Nam tập trung dọc theo các sông lớn, nhưng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, xã hội của đô thị còn chưa đồng bộ, quá tải làm nảy sinh nhiều áp lực đối với môi trường. Sự phát triển dân số và quá trình đô thị hóa tại các đô thị trong thời gian qua đã và đang gây sức ép đến sử dụng tài nguyên nước và môi trường các lưu vực sông.
Theo đánh giá của Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, chính quyền các cấp cũng như cộng đồng, xã hội đã có nhiều nỗ lực bảo vệ môi trường trên các lưu vực sông. Nhưng nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất và dân sinh ngày càng tăng do quá trình phát triển kinh tế-xã hội, áp lực của sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa mạnh mẽ trong những năm qua, đã tạo ra nhiều tác động tiêu cực đến chất lượng và trữ lượng nguồn nước các lưu vực sông.
Việc xây dựng các trạm quan trắc môi trường nước tự động góp phần hiệu quả trong công tác kiểm soát và nâng cao chất lượng nguồn nước
Nhằm nâng cao chất lượng môi trường nước tại các lưu vực sông, Bộ Tài nguyên và Môi trường các bộ, ngành có liên quan cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường; quản lý tài nguyên nước. Trong đó, tập trung hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật có liên quan về quản lý các nguồn thải và chất lượng môi trường nước bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và hài hòa với luật pháp quốc tế.
Bên cạnh đó, quy hoạch và phát triển mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia bảo đảm xây dựng hệ thống quan trắc và cảnh báo chất lượng môi trường đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương để giám sát chặt chẽ, cảnh báo chất lượng môi trường trên phạm vi cả nước.
Đồng thời, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường lưu vực sông từ Trung ương đến địa phương. Chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề môi trường liên ngành, liên tỉnh, đặc biệt là chương trình phối hợp nhằm kiểm soát ô nhiễm nước sông liên tỉnh vào mùa khô; các hoạt động gây ô nhiễm tại các điểm có nguy cơ ô nhiễm cao. Tăng cường các biện pháp giám sát, kiểm soát các nguồn thải ra các lưu vực sông: Cầu, Nhuệ - Đáy, Hồng-Thái Bình, Sài Gòn - Đồng Nai và các dòng sông đã bị ô nhiễm trên phạm vi cả nước.
Hồng Hạnh
Bình luận