Hotline: 0941068156
Thứ ba, 25/02/2025 13:02
Thứ hai, 24/02/2025 11:02
TMO - Khu vực nông thôn chiếm 80% diện tích, 67% dân số cả nước, đóng góp một phần quan trọng vào kinh tế-xã hội của đất nước. Tuy nhiên, những hạn chế trong công tác quản lý chất thải sinh hoạt tại nhiều địa phương gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của người dân.
Theo Báo cáo môi trường 2023: Sự gia tăng dân số và mức sống người dân cũng là nguyên nhân gia tăng lượng chất thải sinh hoạt ở khu vực nông thôn. Kinh tế phát triển khiến cho nhu cầu tiêu dùng của người dân ở các vùng nông thôn ngày càng cao. Hệ thống đường giao thông nông thôn được cải tạo đã ngày càng rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn khiến cho nhiều loại hàng hóa lưu thông mạnh. Đây cũng là nguyên nhân chính làm gia tăng thành phần và khối lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) nông thôn.
Mức phát sinh CTRSH nông thôn trên địa bàn cả nước năm 2023 là khoảng 29.734 tấn/ngày, tỷ lệ CTRSH nông thôn được thu gom, xử lý đạt trung bình khoảng 77,69%; trong đó tỷ lệ chôn lấp khoảng 64% (giảm 26 điểm % so với năm 2012). Tỷ lệ CTRSH được xử lý có sự chênh lệch giữa các vùng (dao động từ 48,28% - 91,34%), phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương trong vùng.
CTRSH nông thôn phát sinh từ các nguồn: hộ gia đình, chợ, nhà kho, trường học, bệnh viện, cơ quan hành chính… Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2019, CTRSH nông thôn chủ yếu bao gồm thành phần hữu cơ dễ phân hủy (thực phẩm thải, chất thải vườn) với độ ẩm thường trên 60%; tuy nhiên, chất hữu cơ khó phân hủy, chất vô cơ (chủ yếu là các loại phế thải thủy tinh, sành sứ, kim loại, giấy, nhựa, đồ điện gia dụng hỏng...) và đặc biệt là túi nilông xuất hiện ngày càng nhiều. Tỷ lệ chất thải bao bì, túi nilông trung bình tại bãi chôn lấp CTRSH chiếm từ 6 - 8%.
Kết quả thống kê năm 2023 cho thấy hiện có 77,69% lượng CTRSH nông thôn được xử lý, khoảng 22% lượng CTRSH còn lại bị xả thải trực tiếp ra môi trường. Trong số lượng CTRSH được xử lý, khoảng 60% được xử lý bằng phương pháp chôn lấp. Phần lớn bãi chôn lấp tiếp nhận CTRSH chưa được phân loại tại nguồn, có thành phần hữu cơ cao nên tính ổn định thấp, chiếm dụng diện tích đất lớn, gây ô nhiễm môi trường do mùi hôi, khí thải, nước rỉ rác, một số trường hợp gây ra sự cố phải xử lý phức tạp và tốn kém.
Ngoài ra, người dân nông thôn (đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa) vẫn giữ thói quen đổ rác thải bừa bãi ven đường làng, bờ sông, hồ, ao, tạo nên các bãi rác tự phát, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống và cảnh quan ở khu vực nông thôn.
Hiện có 77,69% lượng CTRSH nông thôn được xử lý, khoảng 22% lượng CTRSH còn lại bị xả thải trực tiếp ra môi trường.
Việc phân loại CTRSH tại khu vực nông thôn chủ yếu được tiến hành tại hộ gia đình đối với một số loại chất thải như giấy, bìa các tông, kim loại (để bán), chất thải thực phẩm (sử dụng cho chăn nuôi) để đáp ứng chỉ tiêu môi trường trong xây dựng nông thôn mới (NTM). Các thành phần khác hầu hết không được phân loại mà để lẫn, bao gồm các thành phần có khả năng phân hủy và khó phân hủy như túi nilông, thủy tinh, cành cây, lá cây, hoa quả, xác động vật chết… Việc phân loại CTRSH khu vực nông thôn chưa đạt hiệu quả cao, mang tính riêng lẻ, không đồng bộ, chưa được nhân rộng. Nhiều hộ gia đình không hợp tác thực hiện hoặc chỉ thực hiện khi có hỗ trợ kinh phí.
Việc thu gom, vận chuyển CTRSH khu vực nông thôn phần lớn là do các hợp tác xã, tổ đội thu gom tự quản đảm nhiệm; chi phí thu gom, vận chuyển được thỏa thuận với người dân với sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, mức thu và cách thu tùy thuộc vào từng địa phương.
Tại nhiều khu vực nông thôn, do không thuận tiện về giao thông, dân cư không tập trung, nên hoạt động thu gom, vận chuyển CTRSH gặp nhiều khó khăn, còn tồn tại hiện tượng người dân tự tiêu hủy chất thải tại gia đình bằng các hình thức thủ công hoặc vứt bừa bãi ra sông suối, đổ thải tại khu vực đất trống mà không có sự quản lý của chính quyền địa phương. Nếu CTRSH được thu gom thì hầu hết cũng để lộ thiên tập trung tại một khu vực riêng, không có các quy trình BVMT hợp vệ sinh (lót thành đáy hố chôn, thu gom và xử lý nước rỉ rác, lấp đất che phủ…) hoặc được xử lý bằng hình thức đốt thủ công.
Theo thống kê sơ bộ, tỷ lệ thu gom CTRSH nông thôn trung bình toàn quốc năm 2023 đạt khoảng 77,69% và có sự chênh lệch lớn giữa các địa phương và các vùng miền. Một số địa phương có tỷ lệ thu gom CTRSH nông thôn cao như Thành phố Hồ Chí Minh (98,5%), Hà Nam, Hải Phòng, Bình Dương (98,0%), Bắc Ninh (96,0%), Hà Nội (95,0%), Thái Bình (92,0%), Cà Mau (91,5%) và Hậu Giang (90%); trong khi đó, một số tỉnh có tỷ lệ thu gom thấp như Điện Biên (22,0%), Cao Bằng (29, 2%), Gia Lai (29,1%) và Đắk Lắk (24,2%). Nếu xét theo vùng, Đông Nam Bộ có tỷ lệ xử lý cao nhất (91,34%), kế tiếp là đồng bằng sông Hồng (90,95%), thấp nhất là Tây Nguyên (48,28%).
Cùng với phong trào xây dựng NTM, công tác thu gom CTRSH tại khu vực nông thôn đang dần được coi trọng; tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập. Nhiều thôn, xã chưa có các đơn vị chuyên trách trong việc thu gom CTRSH nông thôn. Một số địa phương đã áp dụng các biện pháp thu gom CTRSH nhưng với quy mô nhỏ, phần lớn do hợp tác tự tổ chức thu gom, phương tiện thu gom còn rất thô sơ với các xe cải tiến chuyên chở về nơi tập trung rác.
Theo thống kê, có khoảng 60% số thôn hoặc xã tổ chức thu dọn định kỳ, trên 40% thôn, xã đã hình thành các tổ thu gom rác thải tự quản. Theo thống kê dựa trên báo cáo công tác BVMT của các địa phương năm 2023, tỷ lệ thu gom, xử lý CTRSH tại khu vực nông thôn cả nước đạt khoảng 77,69%. Tuy nhiên, một số khu vực có tỷ lệ CTRSH nông thôn được thu gom, xử lý còn thấp và cách xa mục tiêu đặt ra tại tiêu chí số 17 của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2021 - 2025 như trung du và miền núi phía Bắc (dưới 50%, với mục tiêu đến 2025 là 70%) hay Tây Nguyên (dưới 30%, với mục tiêu đến 2025 là 70%).
Công tác quản lý chất thải sinh hoạt tại các địa phương cần được đẩy mạnh triển khai đồng bộ.
Đối với công tác xử lý CTRSH nông thôn, tỷ lệ CTRSH được chôn lấp trực tiếp còn cao; công nghệ xử lý CTRSH của nhiều địa phương chưa đáp ứng yêu cầu; nhiều cơ sở xử lý chất thải có quy mô nhỏ, công suất xử lý thấp, khó chuyển đổi công nghệ hiện đại. Công suất xử lý CTRSH của các cơ sở hiện hữu không đáp ứng được khối lượng CTRSH phát sinh, trong khi việc đầu tư xây dựng mới hoặc mở rộng dự án còn thiếu nguồn lực tài chính, đất đai.
Trong những năm gần đây, một số địa phương đã đầu tư, lắp đặt các lò đốt CTR với công suất nhỏ, phục vụ việc xử lý CTRSH cho địa bàn cấp xã, huyện. Tuy nhiên, vấn đề về hiệu quả xử lý cũng như việc đảm bảo yêu cầu về bảo vệ môi trường trong quá trình vận hành vẫn chưa được đánh giá đầy đủ. Các công nghệ xử lý CTRSH tiên tiến, hiện đại có giá thành đầu tư, xử lý cao trong khi ngân sách của các địa phương dành cho xử lý CTRSH còn hạn chế (ví dụ, các nhà máy đốt rác phát điện cần phải đạt công suất xử lý tối thiểu là 400 tấn/ngày trở lên mới đảm bảo hòa vốn). Do đó, việc triển khai các dự án, cơ sở xử lý CTRSH với công nghệ hiện đại còn chậm.
Việc quy hoạch, xác định vị trí, địa điểm xây dựng cơ sở xử lý chất thải thường gặp khó khăn do người dân phản đối; việc tổ chức triển khai quy hoạch tại các địa phương còn chậm, thiếu nguồn lực để thực hiện. Việc bố trí địa điểm tập kết, trung chuyển, lưu giữ CTRSH nông thôn nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức. Thiếu địa điểm, hạ tầng kỹ thuật thu gom, phân loại, tập kết, vận chuyển đảm bảo yêu cầu về mỹ quan, vệ sinh môi trường cũng như chuẩn bị cho công tác phân loại CTRSH tại nguồn.
Bên cạnh đó, các địa phương còn lúng túng trong việc lựa chọn cơ sở xử lý CTRSH theo quy định của pháp luật về đầu tư, đấu thầu và tài chính; chậm triển khai thu hút đầu tư các cơ sở xử lý chất thải theo quy định về đầu tư, đầu tư theo phương thức đối tác công tư và quy định về bảo vệ môi trường. Ở các khu vực nông thôn chưa có hệ thống thu gom, xử lý nước thải, nước thải sinh hoạt, sản xuất xả trực tiếp ra hệ thống kênh, mương, hồ, ao, gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, nhiều kênh, mương, hồ, ao bị san, lấp để xây dựng nhà ở, phát triển sản xuất nên mất đi tính hệ thống dẫn đến không còn sự liên thông dòng chảy, gây ra tình trạng ứ đọng nguồn nước làm gia tăng mức độ ô nhiễm.
Để tăng cường hiệu quả quản lý chất thải sinh hoạt nói chung và quản lý chất thải sinh hoạt nông thôn nói riêng, các bộ, ngành, địa phương cần thực hiện một số giải pháp ưu tiên, bao gồm: Xây dựng và ban hành các đề án quản lý CTRSH cấp quốc gia và địa phương để triển khai thực hiện thống nhất, có lộ trình tiến tới chấm dứt hình thức xử lý bằng chôn lấp. Xây dựng, ban hành các quy định, hướng dẫn kỹ thuật cụ thể để triển khai có hiệu quả các quy định về quản lý CTRSH trong Luật Bảo vệ môi trường, tập trung vào một số nội dung: phân loại CTRSH tại nguồn, đồng bộ với công tác thu gom và xử lý; xác định chi phí thu gom, xử lý CTRSH.
Rà soát, đánh giá, đề xuất danh mục công nghệ xử lý CTRSH, xử lý nước thải sinh hoạt phù hợp với điều kiện nông thôn Việt Nam, trình ban hành theo thẩm quyền để khuyến khích áp dụng tại các địa phương. Xây dựng và ban hành giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH trên địa bàn các tỉnh.
Bố trí kinh phí sự nghiệp bảo vệ môi trường hằng năm của địa phương hỗ trợ cho việc thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH nông thôn, cải tạo các bãi chôn lấp đã đóng cửa, xử lý các bãi chôn lấp chất thải tự phát; bố trí hạ tầng thu gom, tập kết, phân loại, trung chuyển CTRSH ở nông thôn; xây dựng và triển khai các mô hình thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH, xử lý nước thải sinh hoạt phù hợp với đặc thù nông thôn của từng địa phương Khuyến khích, tăng cường xã hội hóa đầu tư trong lĩnh vực phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH, thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt tại khu vực nông thôn.../.
Mai Linh
Bình luận