Hotline: 0941068156

Chủ nhật, 19/05/2024 09:05

Tin nóng

Thêm 50 cây cổ thụ trên cả nước đủ điều kiện công nhận Cây Di sản Việt Nam

Lai Châu: Đa cổ thụ hơn 500 tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam: Nỗ lực hoàn thành kế hoạch 6 tháng đầu năm 2024

Quần thể 53 cây cổ thụ tại Bình Dương được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Quần thể chè Shan tuyết cổ thụ ở Sơn La được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cây nghiến Di sản - Tài sản vô giá của núi rừng Lâm Bình

Tam Kỳ (Quảng Nam): Đón Bằng công nhận Cây Di sản Việt Nam đối với quần thể 9 cây sưa cổ thụ

Cần cơ chế bảo tồn, phát huy giá trị Cây Di sản Việt Nam

Phát hiện 6.978 vụ vi phạm về môi trường trong 3 tháng đầu năm 2024

Hải Dương: Cây muồng ràng ràng 300 năm tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Thanh Oai (Hà Nội): 5 cây cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Giờ Trái đất 2024: Cả nước tiết kiệm được 428.000 kWh

Quần thể 9 cây sưa cổ thụ ở Tam Kỳ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Hải Phòng: Bồ đề và bàng cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

6 cổ thụ ở Tam Nông được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cuộc thi viết về Cây Di sản Việt Nam: Lan tỏa thông điệp bảo vệ cảnh quan, môi trường ứng phó biến đổi khí hậu

Phát động cuộc thi viết về Cây Di sản Việt Nam

Khẩn trương ứng phó cao điểm xâm nhập mặn

Cẩm Phả (Quảng Ninh): Nhiều cây cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Vĩnh Phúc: Duối cổ thụ hơn 700 tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Chủ nhật, 19/05/2024

Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ tài nguyên môi trường

Chủ nhật, 20/08/2023 07:08

TMO -  Sau 10 năm Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (Nghị quyết số 24-NQ/TW), công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã được quan tâm, chú trọng và đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường được Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ban hành ngày 3/6/2013. Về nội dung chủ động ứng phó với BĐKH, Nghị quyết đề ra mục tiêu đến năm 2020, về cơ bản chủ động thích ứng với BĐKH, phòng tránh thiên tai, yêu cầu giảm mức phát thải khí nhà kính (KNK) trên đơn vị GDP từ 8 - 10% so với năm 2010, hướng đến năm 2050 Việt Nam chủ động ứng phó với BĐKH và các mục tiêu cụ thể khác phục vụ phát triển bền vững của đất nước.

Quan điểm, chủ trương của Nghị quyết số 24-NQ/TW được thể chế hóa trong quá trình xây dựng và ban hành các Luật và văn bản dưới luật, như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Khí tượng thủy văn và các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành đã tạo lập được hành lang pháp lý bao quát về thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ô-dôn và phát triển thị trường các-bon, góp phần thúc đẩy mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các-bon thấp….

Đáng chú ý, các hoạt động hội nhập, hợp tác quốc tế về BĐKH đã vươn lên một tầm mới. Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia có trách nhiệm, thực chất và hiệu quả các điều ước quốc tế về BĐKH toàn cầu. Từ 2013 đến nay, Việt Nam đã tham gia 11 Điều ước, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực BĐKH. Đặc biệt tại COP26, Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, giảm phát thải khí mê-tan 30% vào năm 2030 so với năm 2020, Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch.

Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả COP26, Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến 2050, Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030, Đóng góp do quốc gia quyết định (NDC) cập nhật năm 2022 gửi Ban Thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH. Gần đây Việt Nam đã thông qua Tuyên bố chính trị JETP với các đối tác trong và ngoài G7, là động lực để chuyển đổi năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo và các nguồn năng lượng mới, thúc đẩy chuyển đổi xanh và thực hiện mục tiêu trung hòa các-bon vào năm 2050.

Thực hiện kiểm kê phát thải KNK được thực hiện nhằm kiểm soát, ngăn ngừa nguy cơ ô nhiễm môi trường. 

Về kết quả thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ theo Nghị quyết, chỉ tiêu giảm mức phát thải KNK trên đơn vị GDP đã đạt vượt mức đề ra. Cụ thể, cường độ phát thải KNK trên một đơn vị GDP năm 2013, 2014, 2016, 2018, 2020 đã giảm lần lượt là 17,27%, 16,37%, 16,72%, 19,7%, 14,3% so với năm 2010 (mục tiêu là 10%). Điều này thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam là đạt mục tiêu kép phát triển kinh tế đi đôi với giảm phát thải KNK. Việc giảm thiểu, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, tuân thủ cam kết quốc tế cũng đã đạt nhiều kết quả tích cực. Đề án phát triển thị trường các-bon trong nước đã được xây dựng; trao đổi tín chỉ các-bon quốc tế theo Cơ chế phát triển sạch (CDM); Cơ chế tín chỉ chung hợp tác Việt Nam - Nhật Bản (JCM) được triển khai…

Năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát BĐKH đã được nâng cao. Kịch bản BĐKH được cập nhật định kỳ vào năm 2016 và 2020; xây dựng bản đồ ngập lụt, làm cơ sở cho các địa phương triển khai các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, thích ứng với BĐKH. Thiệt hại về người, tài sản do thiên tai gây ra đã giảm đáng kể, trong đó giai đoạn 2018-2022 giảm 18% về người, 34% về vật chất so với giai đoạn 2013-2017.

Công tác truyền thông góp phần quan trọng để toàn dân và cộng đồng doanh nghiệp thống nhất nhận thức và đồng hành cùng Chính phủ; giúp thay đổi nhận thức của các cấp, của người dân và cộng đồng về BĐKH trong chủ động phòng chống thiên tai, thích ứng với BĐKH trước những hiện tượng thời tiết cực đoan. Công tác phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn do nước biển dâng đã được quan tâm sâu sát. Hầu hết các địa phương đã ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH, Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của địa phương. Các thành phố, đô thị lớn ven biển đều chủ động đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn.

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng để phát triển ĐBSCL bền vững, thịnh vượng theo hướng tôn trọng quy luật tự nhiên; coi nước mặn, nước lợ là nguồn tài nguyên cho phát triển; xoay trục chiến lược sang thủy sản - trái cây - lúa gạo… Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 đã được phê duyệt và triển khai thực hiện.

Bên cạnh kết quả đạt được các mục tiêu chính nêu trên, nhiều nội dung quan trọng tại Nghị quyết cũng đã được tích cực triển khai mang lại hiệu quả thiết thực, như: Thí điểm trên toàn quốc nhiều mô hình sinh kế cộng đồng thích ứng với BĐKH; lồng ghép nội dung BĐKH vào hầu hết các chiến lược, quy hoạch quốc gia, ngành. Việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH, các chương trình KH&CN cấp quốc gia đã có đóng góp lớn trong nâng cao năng lực thích ứng BĐKH, cải thiện cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai, xác định cơ sở khoa học cho các hoạt động ứng phó BĐKH trên quy mô cả nước.

Biến đổi khí hậu đã trở thành xu thế không thể đảo ngược, là thách thức lớn nhất đối với nhân loại. Mỗi quốc gia phải chủ động thích ứng nhằm hạn chế các tác động tiêu cực, đồng thời có trách nhiệm giảm phát thải KNK theo cam kết quốc tế. Trong bối cảnh đó, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 24-NQ/TW thời gian tới cần được làm rõ, bổ sung phù hợp với tình hình quốc tế, đồng thời đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn phát triển của đất nước.

Tăng cường đầu tư cho hạ tầng thích ứng BĐKH, phòng chống thiên tai. 

Về một số nhiệm vụ trọng tâm trong chủ động ứng phó BĐKH, Cục BĐKH đề xuất: Trước tiên, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật ứng phó với BĐKH; tăng cường truyền thông tạo sự thống nhất cao về thực hiện các cam kết ứng phó với BĐKH; hướng dẫn các địa phương, cơ sở triển khai thực hiện các quy định về giảm phát thải KNK, thích ứng với BĐKH. Cùng với đó, cần tăng cường đầu tư cho hạ tầng thích ứng BĐKH, phòng chống thiên tai và nâng cao năng lực dự báo, ứng phó với các thiên tai do ảnh hưởng của BĐKH. Nâng cao khả năng phòng chống thiên tai của đất nước, đặc biệt là các khu vực dễ bị tổn thương cao như vùng ĐBSCL, khu vực ven biển miền Trung, miền núi phía Bắc.

Kiểm soát tốt nguồn phát thải KNK lớn trên phạm vi toàn quốc. Thực hiện kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính của các lĩnh vực theo lộ trình đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Thực hiện nghiêm quy định về kiểm kê KNK và giảm phát thải KNK đối với các cơ sở, doanh nghiệp và tăng số cơ sở phát thải phải thực hiện kiểm kê KNK theo lộ trình. Triển khai áp dụng các công nghệ mới, tiên tiến về thu giữ, lưu trữ và sử dụng các-bon, phát triển năng lượng mới.

Tập trung triển khai Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát theo lộ trình thực hiện Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn; xây dựng và thực hiện chiến lược làm mát đô thị ở Việt Nam nhằm thực hiện các mục tiêu cam kết.

Thiết lập và vận hành hiệu quả thị trường các-bon trong nước và kết nối thị trường các-bon khu vực và thế giới. Huy động doanh nghiệp tham gia đầu tư vào các hoạt động thích ứng, các dự án đầu tư chuyển đổi xanh, phát triển công nghệ các-bon thấp, sử dụng tiết kiệm năng lượng và tài nguyên. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, huy động nguồn lực từ các hợp tác song phương và đa phương cho các hoạt động thích ứng với BĐKH, giảm phát thải KNK...

 

 

Thu Phương 

 

 

 

 

 

Thích và chia sẻ bài viết:

Bình luận

    Bình luận của bạn

    cmt
      Web đang chạy kỹ thuật
      Zalo phone Hotline