Hotline: 0941068156
Thứ tư, 30/07/2025 18:07
Thứ ba, 08/07/2025 14:07
TMO - Tỉnh An Giang tiếp tục hoàn thiện hạ tầng thủy lợi nhằm bảo đảm cấp nước, tiêu, thoát nước cho dân sinh, sản xuất nông nghiệp, các ngành kinh tế và bảo vệ môi trường; nâng cao năng lực, chủ động phòng, chống thiên tai...
Hiện nay, hệ thống công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh gồm 4.035 cống, 6.314 tuyến kênh, với tổng chiều dài 18.343km, 33 hồ chứa, 2.802 trạm bơm, 3.128 bờ bao và đê bao, với chiều dài hơn 8.800km, cùng 234 công trình kè (biển và sông) dài 87,84km. Ngoài ra, An Giang còn có 133km đê biển ven biển Tây, 22,7km đê cấp III vùng đông kênh Bảy Xã, 32km đê bao Ô Môn - Xà No, 35,87km đê cửa sông, 128,63km đê sông và hàng trăm km đê chuyên dụng.
Những năm gần đây, tình trạng biến đổi khí hậu, hạn hán và xâm nhập mặn diễn ra ngày càng gay gắt, đe dọa sản xuất và sinh hoạt của hàng trăm ngàn hộ dân sống dọc các xã ven biển của tỉnh, như: Hòn Đất, Bình Giang, Bình Sơn, An Biên, An Minh, Kiên Lương…Các công trình thủy lợi như cống Cái Lớn - Cái Bé, hệ thống cống ven biển Tây, các tuyến đê bao vùng lũ cùng hàng trăm trạm bơm, cống điều tiết nội đồng đã được vận hành đồng bộ, góp phần kiểm soát mặn - ngọt linh hoạt, bảo vệ an toàn cho hàng trăm ngàn ha lúa, rau màu, cây ăn trái.
Việc vận hành hiệu quả các công trình thủy lợi giữ vai trò quan trọng trong đảm bảo nguồn nước tưới, phòng chống thiên tai trên địa bàn tỉnh.
Thời gian tới, tỉnh An Giang phát triển hạ tầng thủy lợi, nâng cao năng lực cấp nước, tiêu thoát nước phục vụ dân sinh, sản xuất nông nghiệp, tạo nguồn cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ và các ngành kinh tế trên cơ sở khả năng nguồn nước. Củng cố, xây dựng hạ tầng phòng, chống thiên tai nhằm chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu, quản lý, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong quy hoạch, đầu tư xây dựng, quản lý, khai thác, vận hành công trình thủy lợi, phòng, chống thiên tai.
Hệ thống thủy lợi đảm bảo chất lượng và sản lượng nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội; 100% hộ gia đình ở thành thị và 98% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn từ công trình cấp nước tập trung. Cấp đủ nước phục vụ sinh hoạt; cấp và tạo nguồn cấp nước cho nông thôn, đô thị, công nghiệp, khu kinh tế,... Chủ động nguồn nước tại chỗ cho sinh hoạt ở các khu vực bị ảnh hưởng của hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn; đối với một số vùng đặc biệt khó khăn về nguồn nước, vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn, lũ, ngập lụt tỷ lệ cấp nước tối thiểu đạt 70% - 96%; đảm bảo an ninh nguồn nước sinh hoạt trước các tác động ô nhiễm nguồn nước, sự cố ô nhiễm nguồn nước, khủng bố nguồn nước;
Về tiêu, thoát nước: Bảo đảm tiêu, thoát nước qua công trình thủy lợi cho khoảng 353.683 ha diện tích đất sản xuất nông nghiệp, thủy sản và diện tích đất đô thị, công nghiệp,… với tần suất mưa thiết kế 10%. Chủ động tiêu, thoát nước ra sông chính, tăng diện tích tiêu bằng động lực; duy trì diện tích chứa, điều hòa nước mưa, nhất là các khu đô thị, khu dân cư tập trung.
Không những vậy, hệ thống thủy lợi cần được phát huy hiệu quả trong phòng, chống thiên tai. Tỉnh An Giang đặt mục tiêu giảm 30% thiệt hại đối với các loại hình thiên tai có cường độ, quy mô tương đương đã xảy ra trong những năm 2000, 2011, 2018 và hạn hán đầu năm 2020 trên địa bàn tỉnh; không để xảy ra thiệt hại về người do lũ, dông lốc và sạt lở đất bờ sông gây ra. Các đô thị đảm bảo chống lũ với tần suất 1%, các khu vực sản xuất cả năm chống lũ với tần suất 2%, các vùng khác chủ động chung sống với lũ;
Để triển khai hiệu quả các mục tiêu trên, địa phương này sẽ tập trung sửa chữa các hồ chứa bị hư hỏng, xuống cấp; khôi phục đảm bảo dung tích hồ theo thiết kế và nâng dung tích trữ của một số hồ chứa nước hiện có để chủ động nguồn nước tại chỗ cho các vùng còn tiềm năng; xây dựng mới các hồ chứa nước, cống, trạm bơm phục vụ đa mục tiêu, ưu tiên cho các vùng khó khăn về nguồn nước, vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, lũ, ngập lụt, úng.
Phát triển hệ thống hồ chứa nhỏ, phân tán, công trình trữ nước quy mô hộ gia đình để cấp nước sinh hoạt, sản xuất tại các vùng khó khăn về nguồn nước, vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. Đầu tư xây dựng các công trình lấy nước từ hệ thống công trình thủy lợi cấp cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và mở rộng diện tích tưới cho cây trồng cạn kết hợp nâng cao năng lực kiểm soát lũ của các công trình; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Địa phương này tiếp tục hoàn thiện hạ tầng thủy lợi theo hướng đa mục tiêu.
Phát triển hệ thống công trình thủy lợi phù hợp với phương án phân vùng, quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi, quy hoạch vùng. Chủ động các giải pháp thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu, sạt lở bờ sông, lũ, triều cường, suy thoái dòng chảy thượng lưu; kịp thời bảo vệ nguồn nước, bảo vệ môi trường sinh thái. Xây dựng hệ thống thủy lợi phục vụ đa mục tiêu, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, an ninh nguồn nước...
Đầu tư xây dựng hệ thống các công trình cấp nước, tạo nguồn, dẫn nguồn cấp nước ổn định cho sinh hoạt, hoàn thiện các công trình cấp nước tập trung nông thôn, ưu tiên cho khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của hạn hán (khu vực vùng cao miền núi), khu vực có khả năng ảnh hưởng của xâm nhập mặn (khu vực giáp các tuyến kênh: kênh ranh Thoại Sơn - Kiên Giang, kênh ranh Tri Tôn - Kiên Giang, kênh Ninh Phước 2), khu vực có nguy cơ ảnh hưởng của lũ, ngập lụt (khu vực đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu có cao độ địa hình đất tự nhiên trũng thấp).
Nâng cấp, sửa chữa, kết hợp với quản lý, vận hành, duy tu bảo dưỡng nhằm phát huy hiệu quả, hoạt động bền vững của công trình; ưu tiên lấy nước từ hệ thống công trình thủy lợi, hồ chứa để bảo đảm nguồn nước an toàn, ổn định. Rà soát, điều chỉnh, kết nối liên thông giữa hệ thống cấp nước sinh hoạt đô thị và nông thôn vùng ven các khu đô thị, khu dân cư tập trung.
Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các công trình tạo nguồn nước, tích trữ nước, điều tiết, cân đối nước, cấp nước tại chỗ; sử dụng nước từ hệ thống thủy lợi, hồ chứa nước,... phục vụ cấp nước sinh hoạt trong trường hợp xảy ra thiên tai, hạn hán, thiếu nước xâm nhập mặn, phòng cháy chữa cháy rừng,…(Dự án Hệ thống thủy lợi vùng cao thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm phục vụ tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp cho đồng bào vùng Bảy Núi; đầu tư công trình điều tiết, nạo vét các trục kênh để chủ động trữ nước, tạo nguồn nước đáp ứng yêu cầu sinh hoạt, sản xuất).
Thực hiện các công trình phòng, chống sạt lở bảo vệ khu đô thị, khu dân cư tập trung có nguy cơ sạt lở; đề xuất các khu vực thực hiện các công trình chỉnh trị dòng chảy sông, rạch nhằm giữ ổn định tỷ lệ phân lưu, ổn định dòng chảy, hình thái sông, bờ sông tại các khu vực trọng điểm, khu vực sông có diễn biến bồi, xói phức tạp; xây dựng các khu dân cư phục vụ di dời dân ra khỏi những khu vực sạt lở, khu vực có nguy cơ xảy ra sạt lở bờ sông.../.
Lê Thư
Bình luận