Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 23/11/2024 21:11
Thứ ba, 21/11/2023 14:11
TMO - Tỉnh An Giang đặt mục tiêu bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia trên địa bàn, chủ động về nguồn nước cho các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong mọi tình huống. Bảo đảm phân bổ, điều hòa tài nguyên nước một cách công bằng, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả gắn với bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên nước.
Nguồn tài nguyên nước mặt của tỉnh An Giang tồn tại chủ yếu là dạng nước ngọt ở các sông, hồ và các vùng đất ngập nước. Nguồn nước ngọt dồi dào từ 02 con sông lớn chảy qua địa phận tỉnh là sông Tiền (dài 80 km) và sông Hậu (dài 100 km). Lưu lượng trung bình năm của sông Tiền, sông Hậu vào khoảng 13.500 m3 /s, lưu lượng vào mùa lũ 24.000 m3 /s và mùa kiệt là 5.020 m3 /s. Ngoài các sông lớn như sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Nao, sông Bình Di và sông Châu Đốc, An Giang còn có hệ thống kênh, rạch với mật độ sông ngòi thuộc nhóm cao nhất trong các tỉnh ĐBSCL.
Các kênh, rạch, hồ, búng tự nhiên hoặc nhân tạo nằm rãi rác trên khắp nơi trong tỉnh tạo nên mạng lưới giao thông, thủy lợi của tỉnh. Các rạch nằm giữa sông Tiền và sông Hậu thường lấy nước từ sông Tiền chuyển sang sông Hậu. Các rạch ở phía Tây sông Hậu thì lấy nước từ sông Hậu dẫn vào nội đồng. Các kênh, rạch là nguồn cung cấp nguồn nước cho nhu cầu hoạt động của nông nghiệp hoặc sinh hoạt của người dân tại địa phương. Mặt khác, An Giang còn có mạng lưới kênh đào được khai mở qua các thời kỳ, có tác dụng tích cực trong việc khuếch tán dòng chảy lũ - phù sa - triều vào sâu nội đồng để tiêu lũ trong mùa mưa, chuyển tải ngọt đuổi mặn trong mùa khô, rửa phèn vào đầu và cuối mùa mưa.
Về chất lượng của tài nguyên nước sông: hiện nay, đa số nước sông đã có những biểu hiện ô nhiễm ở nhiều mức độ khác nhau, do việc sử dụng ngày một nhiều thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học trong nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, xuất phát từ việc thâm canh quá mức, ngoài ra là những hoạt động sản xuất công nghiệp, đô thị... Với chất lượng nước như vậy, ảnh hưởng rất lớn đến canh tác nông nghiệp bền vững. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, dưới tác động của nhiều yếu tố như xâm nhập mặn, xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong, ô nhiễm môi trường nước cũng gây ảnh hưởng rất lớn nguồn nước mặt của tỉnh.
Tỉnh An Giang triển khai các giải pháp đảm bảo an ninh nguồn nước trước tác động của biến đổi khí hậu.
Theo tính toán của ngày chức năng, dự báo nhu cầu khai thác nước trên địa bàn tỉnh An Giang đến năm 2030 khoảng 15,3 triệu m3 /ngày đêm. Trong đó, phân bổ cho các nhanh như sau: ngành trồng trọt 12,3 triệu m3 /ngày đêm ngành chăn nuôi 26.578 m3 /ngày đêm, ngành thủy sản 8.801 m3 /ngày đêm, ngành công nghiệp 26.368 m3 /ngày đêm, ngành du lịch 2,6 triệu m3 /ngày đêm và phục vụ sinh hoạt 253.546 m3 /ngày đêm. Tỉnh An Giang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước và mùa khô, thừa nước vào mùa lũ, giải pháp hữu hiệu nhằm đảm bảo lượng nước dự phòng cấp nước sinh hoạt chính là trữ nước vào mùa lũ, và không gian trữ nước chính là các khu hệ sinh thái đất ngập nước có không gian tích trữ hàng chục tỉ khối nước ngọt, kết hợp phòng cháy chữa cháy, bảo tồn đa dạng sinh học và điều tiết cân bằng sinh thái.
Trước tác động của biến đổi khí hậu cũng như dự báo về nhu cầu sử dungu nguồn nước, địa phương này đặt mục tiêu: Bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia trên địa bàn tỉnh, chủ động về nguồn nước cho các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong mọi tình huống. Bảo đảm phân bổ, điều hòa tài nguyên nước một cách công bằng, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả gắn với bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên nước nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước và tác hại do nước gây ra và hướng tới quản trị ngành nước trên cơ sở chuyển đổi số. Đáp ứng yêu cầu quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông Cửu Long và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Giảm sự phụ thuộc nguồn nước từ các nguồn nước liên quốc gia và tối ưu hóa lợi ích do nguồn nước này mang lại; chủ động nguồn nước điều tiết cho các hoạt động dân sinh, phát triển kinh tế-xã hội. Bảo vệ, kiểm soát và ngăn chặn tình trạng gia tăng suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước. Định hướng các giải pháp cải thiện, phục hồi các sông/đoạn sông đang bị ô nhiễm, đặc biệt là các đoạn sông chảy qua khu vực đô thị (TP. Châu Đốc, TX. Tân Châu, TP. Long Xuyên), các nguồn nước có vai trò quan trọng cho cấp nước sinh hoạt, các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội; giảm thiểu đến mức tối đa tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước. Khắc phục có hiệu quả tình trạng hạn hán, thiếu nước vào mùa khô ở lưu vực sông Cửu Long.
Trong thời kỳ 2021-2030, địa phương này xác định nguồn nước dự phòng để cấp nước sinh hoạt cụ thể như sau: Khu đất ngập nước rừng tràm Trà Sư có tổng diện tích là 1.050ha: đây là nguồn dự phòng nước cho sinh hoạt, diện tích trữ nước quy hoạch đến năm 2030 là 118 km2 với trữ lượng nước là 236 triệu m3Khu đất ngập nước rừng tram Tân Tuyến (Tri Tôn) có tổng diện tích là 500ha. Đây là nguồn dự phòng nước cho sinh hoạt, diện tích trữ nước quy hoạch đến năm 2030 là 15 km2 với trữ lượng nước là 30 triệu m3.
Đối với các khu vực khan hiếm nước, cụ thể ở TX.Tịnh Biên và huyện Tri Tôn, một số công trình hồ chứa được dự kiến xây dựng nhằm đảm bảo lượng nước dự phòng cấp cho sinh hoạt và các hoạt động thiết yếu. Cụ thể với quy mô 21 hồ chứa, trong đó, thị xã Tịnh Biên 14 hồ chứa và huyện Tri Tôn 7 hồ chứa. Nguồn nước dưới đất tại An Giang cũng được khai thác, sử dụng cho mục đích sinh hoạt, tuy nhiên, hướng khai thác sử dụng nước ngầm trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới là nên hạn chế tối đa việc khai thác nhỏ lẻ theo quy mô gia đình vì rất khó kiểm soát về mặt chất lượng và rất khó quản lý phòng ngừa nguy cơ gây ô nhiễm nước ngầm. Giai đoạn từ nay đến 2030, tỉnh An Giang tiếp tục triển khai hệ thống giám sát tài nguyên nước và khai thác, sử dụng nước trong đó bao gồm các điểm quan trắc nước mặt và các điểm quan trắc nước dưới đất.
Ngăn ngừa nguy cơ ô nhiễm, đảm bảo chất lượng nguồn nước cho sản xuất, sinh hoạt được các địa phương chú trọng.
Để điều tiết nguồn nước, cân đối, đảm bảo nhu cầu sử dụng, tỉnh An Giang xây dựng mới đập, hồ chứa nước, công trình điều tiết nguồn nước tại các vùng thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, lũ, ngập lụt, úng để tích trữ, chuyển nước. Rà soát, cơ cấu, sắp xếp lại quy mô các ngành, lĩnh vực sản xuất sử dụng nhiều nước. Hiện đại hóa vận hành hệ thống công trình thủy lợi; áp dụng các giải pháp sử dụng nước tiết kiệm, tái sử dụng nước; theo dõi, giám sát sử dụng nước để giảm thất thoát, lãng phí nước trong sinh hoạt và sản xuất. Định hướng công trình điều tiết, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước trên đại bàn tỉnh An Giang trong thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 như sau:
Vùng trữ nước tại các khu vực: rừng tràm Trà Sư, rừng tràm Tân Tuyến ngoài chức năng là vùng dự trữ nước trong mùa lũ phục vụ cho sinh hoạt còn có chức năng điều tiết nước cho các huyện thiếu nước như Tri Tôn, Tịnh Biên. Nguồn nước dự trữ tại vùng đất ngập nước rừng tràm Trà Sư và rừng trảm Tân Tuyến sẽ được điều tiết đổ ra các tuyến sông, kênh như: kênh Vĩnh Tế, kênh Tri Tôn, kênh Mặc Cần Dưng, kênh Ba Thê, kênh Ba Dầu, rạch Long Xuyên, kênh Rạch Giá - Long Xuyên, phục vụ cho nhu cầu khai thác, sử dụng nước của các huyện/thị xã/thành phố: Long Xuyên, Châu Thành, Thoại Sơn, Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Phú, Châu Đốc.
Hệ thống kênh bao gồm kênh cấp I, cấp II, cấp III và kênh nội đồng. Thực hiện nạo vét, khơi thông dòng chảy các sông, kênh, rạch. Hệ thống cống điều tiết lũ: cống Tha La và cống Trà Sư trên địa bàn TX. Tịnh Biên với mục đích tăng cường điều tiết lũ từ Campuchia thoát ra hướng biển Tây và kiểm soát lũ vùng Tứ giác Long Xuyên.
Bên cạnh đó, địa phương này tăng cường kiểm soát, giám sát chặt chẽ các nguồn thải, chất thải xả vào nguồn nước, nhất là nước thải sinh hoạt, công nghiệp. Đánh giá khả năng chịu tải, phân vùng xả thải, hạn ngạch xả nước thải; xác định mục tiêu, lộ trình giảm xả thải vào nguồn nước, công trình thủy lợi không còn khả năng chịu tải. Xây dựng và triển khai lộ trình cấm sử dụng các loại hóa chất độc hại gây ô nhiễm nguồn nước; quản lý chặt chẽ khai thác nước dưới đất ở khu vực có nguy cơ xâm nhập mặn, sụt lún đất. Đẩy nhanh việc cải tạo, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, ô nhiễm nghiêm trọng, bảo vệ nguồn nước.
Bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có, đặc biệt là đối với diện tích rừng tự nhiên; nâng cao chất lượng rừng; phát triển rừng, đẩy nhanh việc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, khu vực sa mạc hóa; bảo vệ và phát triển bền vững nguồn sinh thủy, các hệ sinh thái ngập nước quan trọng. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra sự cố môi trường; giảm thiểu và xử lý hiệu quả ô nhiễm môi trường từ hoạt động đầu tư, khai thác, kinh doanh; kiểm tra, phát hiện và giải quyết kịp thời các vi phạm, khiếu kiện liên quan đến nguồn nước theo quy định pháp luật.
Kiểm soát chặt chẽ các hành vi lấn chiếm hồ, ao, đầm, xây dựng công trình trái phép, xả nước thải sinh hoạt, nước thải sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Xây dựng kè bờ bảo vệ các khu vực dễ bị san lấp, sạt lở; định kỳ nạo vét đáy hồ, vệ sinh lòng hồ và bờ hồ đối với hồ, ao, đầm trong danh mục không được san lấp. Tổng số hồ, ao, đầm không được san lấp: 19 với tổng diện tích là 777,9 ha; có sức chứa khoảng 5545,78 x 103 m3 nước 17. Cắm mốc, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước đối với các nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ trên địa bàn tỉnh An Giang174 thuộc phạm vi quản lý theo quy định pháp luật lĩnh vực thủy lợi theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Nghị định số 43/2015/NĐCP ngày 06/05/2015 của Chính phủ.
Hệ thống giám sát chất lượng nước, giám sát xả thải vào nguồn nước của tỉnh An Giang tiếp tục được hoàn thiện bao gồm: hệ thống giám sát chất lượng nước mặt, hệ thống giám sát chất lượng nước dưới đất, hệ thống giám sát chất lượng nước dưới đất, hệ thống giám sát xả thải vào nguồn nước. Tiếp tục triển khai hệ thống giám sát chất lượng nước, giám sát xả nước thải vào nguồn nước trong đó bao gồm các điểm quan trắc nước mặt và các điểm quan trắc nước dưới đất.
Minh An
Bình luận