Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 24/11/2024 06:11
Thứ năm, 23/03/2023 04:03
TMO - Mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia cần được nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống các trạm nền cơ bản để thu thập thông tin, dữ liệu nhằm giám sát, đánh giá điều kiện tự nhiên về khí tượng thủy văn của quốc gia, làm cơ sở kiểm tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng các trạm chuyên phục vụ dự báo, cảnh báo và các trạm chuyên dùng khác...
Dưới tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai có nguồn gốc khí tượng thủy văn (KTTV) có xu hướng gia tăng cả về cường độ và tần suất xuất hiện trên phạm vi toàn quốc. Nhiều hiện tượng KTTV trước đây chưa xảy ra ở một số khu vực thì đã được ghi nhận trong vài năm trở lại đây. Quá trình đô thị hóa nhanh và rộng cũng làm biến đổi nhiều đặc tính khí hậu trước đây từ quy mô cấp tỉnh cho đến khu vực, đặc biệt, hành lang kỹ thuật của nhiều công trình quan trắc KTTV quốc gia đã bị vi phạm nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, nhìn chung mạng lưới trạm quan trắc KTTV vẫn còn thưa so với các nước phát triển trên thế giới và theo khuyến cáo của WMO mà nước ta là thành viên. Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch các mạng lưới trạm quan trắc tài nguyên môi trường, trong đó có mạng lưới trạm quan trắc KTTV, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm, chỉ đạo lập và thực hiện quy hoạch tổng thể mạng lưới trạm quan trắc tài nguyên môi trường quốc gia từ năm 2007 và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện một bước cơ bản vào năm 2016 tại Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 12/1/2016 của Thủ tướng Chính phủ Quy hoạch mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Quy hoạch mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến năm 2030 nhấn mạnh đến mục tiêu phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia theo hướng hiện đại, đồng bộ, tự động hoá cao, tích hợp đa mục tiêu, tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo tính khoa học, tiên tiến, hiệu quả, khả thi và được kết nối, chia sẻ thường xuyên, liên tục để bảo đảm cung cấp thông tin, dữ liệu đầy đủ, chính xác, kịp thời trong mọi tình huống; ưu tiên phát triển trạm tại các khu vực thường xuyên xảy ra thiên tai, chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu, khu vực ven biển, biển, đảo, quần đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam.
Trong đó, giai đoạn 2021 - 2025 sẽ tăng dày mật độ, khoảng cách trạm KTTV tự động ngang bằng với các nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á, trong đó mật độ trạm khí tượng bề mặt khoảng 34 km2/trạm, đo mưa khoảng 11 km2/điểm, ra đa thời tiết khoảng 150 km2/trạm, bức xạ khoảng 148 km2/trạm, định vị sét khoảng 125 km2/trạm, khoảng cách trạm hải văn khoảng 112 km/trạm, ra đa biển khoảng 250 km/trạm; bảo đảm các yêu cầu phục vụ dự báo điểm, đầu vào cho mô hình dự báo số.
Ưu tiên phát triển mới các trạm quan trắc KTTV tại các vùng, khu vực thường xuyên chịu tác động của các loại hình thiên tai KTTV, khu vực ven biển và hải đảo, vùng trống số liệu và những yếu tố quan trắc có nhu cầu cấp bách phục vụ dự báo, cảnh báo, phòng chống thiên tai, phát triển kinh tế - xã hội và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Duy trì, nâng cấp và hiện đại hóa các trạm KTTV hiện có; xây dựng mới và đưa vào vận hành một số trạm KTTV, bao gồm: Nâng cấp và hiện đại hóa 134 trạm (bao gồm các trạm được lồng ghép: giám sát biến đổi khí hậu; môi trường không khí; môi trường nước sông, hồ, biển) trong đó: 50 trạm khí tượng bề mặt, 75 trạm thủy văn và 09 trạm hải văn cho các vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và duyên hải Miền Trung, khu vực ven biển và hải đảo thuộc khu vực Đông Bắc, Trung Trung Bộ và Nam Bộ.
Xây dựng mới 1.328 trạm/điểm KTTV theo hướng tự động và hiện đại (bao gồm các trạm được lồng ghép: giám sát biến đổi khí hậu; môi trường không khí; môi trường nước sông, hồ, biển), trong đó: 77 trạm khí tượng bề mặt, 11 trạm thủy văn, 3 trạm hải văn, 4 trạm khí tượng trên cao, 5 trạm ra đa thời tiết, 3 trạm định vị sét, 1 trạm bức xạ, 09 trạm ra đa biển, 28 trạm đo mặn và 1.187 điểm đo mưa cho các vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, ven biển và hải đảo.
Đồng thời, mâng cấp hệ thống hạ tầng thông tin và cơ sở dữ liệu hiện đại với dung lượng phù hợp theo số lượng trạm được tăng thêm và thực hiện cùng với nâng cấp, xây mới trạm KTTV; Giảm khoảng 20% số lượng quan trắc viên tại các trạm KTTV hiện có được tự động hóa, điều chỉnh số người giảm đang hưởng lương từ nguồn ngân sách sang hưởng lương từ nguồn tự chủ, nguồn dịch vụ và một số nguồn hợp pháp khác. Sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, định mức kinh tế - kỹ thuật hoạt động mạng lưới trạm KTTV cho phù hợp và theo tiến trình tự động hóa mạng lưới quan trắc KTTV quốc gia.
Phát triển mạng lưới trạm KTTV hoàn chỉnh, hiện đại là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong Quy hoạch mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Đến giai đoạn 2026 – 2030, sẽ tiếp tục tăng dày mật độ trạm KTTV tự động, trong đó: trạm khí tượng bề mặt khoảng 29 km2/trạm, đo mưa khoảng 9 km2/điểm, ra đa thời tiết khoảng 112 km2/trạm, bức xạ khoảng 136 km2/trạm, định vị sét khoảng 120 km2/trạm, ô dôn - bức xạ cực tím khoảng 287 km2/trạm, hải văn khoảng 70 km/trạm, ra đa biển khoảng 200 km/trạm, phao biển 650 km/trạm. Ưu tiên phát triển các trạm quan trắc KTTV trên biển, đảo, quần đảo, vùng trời phục vụ dự báo, cảnh báo KTTV và phát triển kinh tế biển.
Hoàn thành xây dựng và đưa vào hoạt động các trạm mới trong quy hoạch, đưa mạng lưới trạm KTTV quốc gia của Việt Nam đạt trình độ ngang bằng một số nước phát triển trong khu vực Châu Á, bao gồm: Nâng cấp và hiện đại hóa 61 trạm trong đó: 33 trạm khí tượng bề mặt, 21 trạm thủy văn và 7 trạm hải văn cho các vùng: Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và duyên hải Miền Trung, khu vực ven biển và hải đảo thuộc khu vực Đông Bắc, Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ.
Xây dựng mới 1.230 trạm/điểm KTTV theo hướng tự động và hiện đại, trong đó: 98 trạm khí tượng bề mặt, 59 trạm thủy văn, 20 trạm hải văn, 5 trạm khí tượng trên cao, 5 trạm ra đa thời tiết, 2 trạm định vị sét, 3 trạm ra đa biển, 5 trạm phao biển, 29 trạm đo mặn và khoảng 1.000 điểm đo mưa cho các vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, ven biển và hải đảo.
Hoàn thành nâng cấp và hiện đại hóa các phòng thí nghiệm, hệ thống kiểm định phương tiện đo KTTV; hiện đại hóa hệ thống các trung tâm thông tin, dữ liệu và chuyển đổi số ngành KTTV. Tiếp tục giảm khoảng 20% số lượng quan trắc viên tại các trạm KTTV hiện có được tự động hóa, điều chỉnh số người giảm đang hưởng lương từ nguồn ngân sách sang hưởng lương từ nguồn tự chủ, nguồn dịch vụ và một số nguồn hợp pháp khác.
Định hướng đến năm 2050, mạng lưới trạm KTTV quốc gia bảo đảm tính hiện đại, tự động, có mật độ trạm ngang bằng với các nước phát triển trên thế giới; tiếp cận, nghiên cứu và đưa vào thử nghiệm trên mạng lưới trạm KTTV quốc gia một số loại hình quan trắc hiện đại: camera thông minh, trạm quan trắc trên các phương tiện di động như máy bay trinh sát khí tượng, tàu biển, vệ tinh viễn thám, thiết bị không người lái,...
Để triển khai hiệu quả các mục tiêu trên, thời gian tới các ngành chức năng tập trung hiện đại hóa hệ thống trạm khí tượng thủy văn với việc đầu tư thiết bị, công nghệ quan trắc, thu thập và xử lý số liệu tự động đối với mạng lưới trạm khí tượng bề mặt, khí tượng trên cao, thủy văn, hải văn; bổ sung mạng lưới trạm đo mưa tự động, đặc biệt tại những nơi thường xảy ra lũ quét, sạt lở đất, ngập lụt như miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên thông qua đầu tư từ ngân sách nhà nước, xã hội hóa và thuê dịch vụ; ứng dụng phương tiện bay không người lái, số liệu vệ tinh quan trắc trái đất, công nghệ siêu âm, công nghệ ra đa, công nghệ laser, camera kỹ thuật số trong lĩnh vực khí tượng thủy văn.
Đồng thời, đầu tư, nâng cấp hạ tầng, trang thiết bị công nghệ thông tin của hệ thống KTTV quốc gia; thay thế các công nghệ cũ để theo dõi, giám sát và ứng cứu sự cố an ninh thông tin KTTV; mạng truyền tin hiện đại tại các địa điểm trọng yếu và kho lưu trữ tư liệu đạt chuẩn của ngành...
Đức Nam
Bình luận