Hotline: 0941068156
Thứ tư, 29/10/2025 15:10
Thứ tư, 29/10/2025 13:10
TMO – Xem xét sửa đổi một số điều của Luật Bảo vệ môi trường ngay tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 15 để góp phần khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Đồng thời, sửa đổi quy định về lộ trình, thời gian áp dụng đối với các chính sách liên quan đến quản lý chất thải rắn sinh hoạt cho phù hợp yêu cầu thực tế.
Chỉ rõ nguyên nhân của hạn chế, bất cập của Luật Bảo vệ môi trường 2020, Đoàn giám sát của Quốc hội đề xuất 3 nhóm nhiệm vụ, giải pháp đột phá. Trong đó, giải pháp đầu tiên là đổi mới tư duy và hoàn thiện thể chế, chính sách về bảo vệ môi trường và tổ chức thực thi quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả.
Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm xuyên suốt trong tư duy, tầm nhìn và định hướng phát triển bền vững đất nước; thống nhất trong nhận thức và hành động coi chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển, bảo đảm an ninh môi trường; thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, thực hiện chuyển đổi xanh thông qua cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu, phát triển công nghệ thân thiện môi trường, công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, mua sắm xanh, năng lượng tái tạo; chủ động xây dựng thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
.png)
Mô hình trồng nấm từ phụ phẩm nông nghiệp (rơm rạ) sau thu hoạch.
Kinh tế hóa môi trường, trong đó thiết lập cơ chế định giá tài nguyên, chi trả dịch vụ hệ sinh thái và nâng cao hiệu quả của công cụ thuế môi trường, phí môi trường, hạn ngạch phát thải... Các nhiệm vụ, giải pháp tiếp theo là tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho bảo vệ môi trường; phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Về nhiệm vụ, giải pháp cấp bách, hoàn thành đến cuối năm 2026, Đoàn giám sát kiến nghị tổng kết, đánh giá việc thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trình Quốc hội xem xét, thông qua đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa 16.
Trước mắt, xem xét sửa đổi ngay một số điều của Luật Bảo vệ môi trường tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 15 để góp phần khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp; đồng thời sửa đổi quy định về lộ trình, thời gian áp dụng đối với các chính sách liên quan đến quản lý chất thải rắn sinh hoạt cho phù hợp yêu cầu thực tế.
Cùng với đó là tổ chức rà soát, đánh giá và cập nhật, điều chỉnh (trong trường hợp cần thiết) các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan đến bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; ban hành và triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2045; đồng thời thực hiện ngay các biện pháp cấp bách kiểm soát, ngăn chặn và khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm không khí tại Hà Nội và TP. HCM.
Hoàn thành việc đánh giá sức chịu tải và công bố kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt một số lưu vực sông liên tỉnh có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội; cải thiện chất lượng môi trường một số đoạn sông bị ô nhiễm nghiêm trọng trên các sông: Ngũ Huyện Khê, Tô Lịch, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải.
Đoàn giám sát của Quốc hội kiến nghị khẩn trương hoàn thành và đưa vào vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia, bảo đảm tích hợp, kết nối, liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia và chia sẻ theo thời gian thực; tổ chức thiết lập và vận hành thí điểm Sàn giao dịch tín chỉ carbon, bước đầu hình thành và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam…

Tập trung xử lý chất lượng môi trường một số đoạn sông bị ô nhiễm nghiêm trọng như sông Ngũ Huyện Khê, Tô Lịch, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải. Ảnh minh họa.
Nhiều chuyển biến tích cực nhưng cũng còn không ít bất cập
Theo Báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội, công tác bảo vệ môi trường đã có nhiều chuyển biến, đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng; chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tăng, đứng tốp đầu trong ASEAN. Có 3/5 chỉ tiêu đã vượt kế hoạch đặt ra cho năm 2025, gồm: tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; tỷ lệ che phủ rừng.
Ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp môi trường được bảo đảm không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách nhà nước và tăng qua các năm (năm 2024 đạt 1,12%). Các nguồn thải lớn đã được kiểm soát chủ động và chặt chẽ, không để xảy ra sự cố môi trường lớn; đã xuất hiện nhiều mô hình đô thị, nông thôn, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất sinh thái, thân thiện với môi trường.
Công tác quản lý chất thải có nhiều chuyển biến, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt tăng dần qua các năm, đến hết năm 2024 đạt 97,26% ở đô thị, 80,5% ở nông thôn, giảm hình thức chôn lấp; việc tái chế, tái sử dụng, tận dụng giá trị tài nguyên từ chất thải được tăng cường thông qua các hình thức như đồng xử lý chất thải trong lò nung ximăng, tận dụng nhiệt dư từ đốt rác, sản xuất ximăng để phát điện…
Tuy nhiên, Đoàn giám sát của Quốc hội nhận thấy việc tổ chức thực hiện Luật Bảo vệ môi trường còn một số hạn chế, bất cập. Cụ thể, tình trạng ô nhiễm môi trường còn xảy ra, vẫn còn diễn biến phức tạp, có thời điểm ở mức độ nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí (do bụi mịn) tại các thành phố lớn. Chỉ số chất lượng không khí có thời điểm vượt ngưỡng an toàn, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe người dân. Chất lượng môi trường một số đoạn sông tập trung tại khu vực đông dân cư, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, làng nghề trên lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ-Đáy, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải chậm được cải thiện.
Chỉ tiêu về tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý chưa hoàn thành. Theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, đến năm 2025, 100% cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải được xử lý, nhưng đến tháng 9/2025, cả nước vẫn còn 38/435 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa hoàn thành xử lý triệt để.
Ngoài ra, hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường, nhất là trong thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, nước thải còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu (hiện nay chỉ có khoảng 18% tổng lượng nước thải đô thị được thu gom, xử lý; tỷ lệ chôn lấp trực tiếp tuy đã giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao, nhiều bãi chôn lấp gây ô nhiễm môi trường chậm được xử lý). Việc tuần hoàn, tái sử dụng nước thải, tái chế một số loại chất thải rắn công nghiệp vẫn còn hạn chế; một số loại chất thải nguy hại, bao bì hóa chất bảo vệ thực vật phát sinh từ hộ gia đình... chưa được thu gom, xử lý riêng mà lẫn trong chất thải rắn sinh hoạt. Một số mục tiêu chính sách của Luật Bảo vệ môi trường thể hiện trong các pháp luật khác có liên quan chưa đạt hiệu quả mong muốn…/.
PHẠM DUNG
Bình luận