Hotline: 0941068156
Thứ năm, 13/03/2025 22:03
Thứ năm, 13/03/2025 19:03
TMO – Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo được áp dụng từ năm 2016, đến nay, nhiều nội dung trong luật không còn phù hợp với tình hình thực tiễn. Do đó, cần nghiên cứu điều chỉnh nhằm tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong việc khai thác, sử dụng không gian biển, bảo vệ môi trường biển; giải quyết hài hòa quyền và lợi ích giữa các bên.
Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2015, hiệu lực thi hành từ tháng 7/2016. Luật quy định nhiều nội dung quan trọng nhằm quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguồn nguyên biển, hải đảo, góp phần phát triển kinh tế-xã hội. Trong đó, luật quy định rõ chính sách của Nhà nước về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.
Theo đó, Nhà nước bảo đảm tài nguyên biển và hải đảo được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả, bền vững theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Huy động các nguồn lực, khuyến khích đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; ưu tiên cho vùng biển sâu, biển xa, hải đảo, vùng biển quốc tế liền kề và các tài nguyên mới có tầm quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
Tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo; nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong việc kiểm soát ô nhiễm, phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường biển và hải đảo, biến đổi khí hậu, nước biển dâng; quản lý chặt chẽ hoạt động nhận chìm ở biển. Đầu tư nâng cao năng lực quan trắc, giám sát, dự báo về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; thiết lập hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tổng hợp, đồng bộ về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo phục vụ phát triển kinh tế biển, quốc phòng, an ninh. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.
(Ảnh minh họa)
Về nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo, luật quy định: Tài nguyên biển và hải đảo phải được quản lý thống nhất theo chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển; quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ; bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo phải dựa trên tiếp cận hệ sinh thái, bảo đảm tài nguyên biển và hải đảo được khai thác, sử dụng phù hợp với chức năng của từng khu vực biển và trong giới hạn chịu tải của môi trường, các hệ sinh thái biển, hải đảo. Việc quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp; tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan tham gia tích cực và hiệu quả trong quá trình quản lý; bảo đảm quyền tiếp cận của người dân với biển.
Luật quy định rõ sự tham gia của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Cụ thể: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm bảo đảm sự tham gia thuận lợi, có hiệu quả của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm lấy ý kiến của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình lập chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo, quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ, chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ và thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển; tiếp thu, giải trình các ý kiến tham gia của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Việc lấy ý kiến của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan được thực hiện thông qua hình thức trực tiếp, bằng văn bản hoặc các phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc tiếp thu, giải trình phải được công khai trên trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Về phạm vi vùng bờ, luật quy định: Phạm vi vùng bờ được xác định trên cơ sở căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng khu vực trong vùng bờ; đặc điểm quá trình tương tác giữa đất liền hoặc đảo với biển; yêu cầu bảo vệ môi trường vùng bờ, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; hiện trạng và nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên và một số đặc điểm khác ở vùng bờ để tổ chức quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ phù hợp với năng lực quản lý.
Về hành lang bảo vệ bờ biển, luật quy định: Hành lang bảo vệ bờ biển là dải đất ven biển được thiết lập ở những khu vực cần bảo vệ hệ sinh thái, duy trì giá trị dịch vụ của hệ sinh thái và cảnh quan tự nhiên ở vùng bờ; giảm thiểu sạt lở bờ biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; bảo đảm quyền tiếp cận của người dân với biển.
Theo Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, việc thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển phải tuân theo các nguyên tắc: Phải căn cứ vào yêu cầu, mục tiêu của việc thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển quy định tại; Bảo đảm tính khoa học, khách quan; hài hòa giữa yêu cầu bảo vệ và phát triển, có tính đến hiện trạng khai thác, sử dụng tài nguyên ở vùng đất ven biển; bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa; bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương; Phải phù hợp với quy định của pháp luật về đê điều, khu vực biên giới trên biển; bảo đảm quốc phòng, an ninh;
Phải xác định rõ chỉ giới hành lang bảo vệ bờ biển ở các khu vực thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển; Bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan; bảo đảm công khai, minh bạch, có sự tham gia của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan trong khu vực thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển; bảo đảm quyền tiếp cận của người dân với biển. Chiều rộng hành lang bảo vệ bờ biển được tính từ đường mực nước triều cao trung bình nhiều năm về phía đất liền hoặc về phía trong đảo. UBND cấp tỉnh có biển căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương và quy định tại Điều này có trách nhiệm tổ chức thiết lập, công bố và quản lý hành lang bảo vệ bờ biển thuộc phạm vi quản lý.
Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo cũng quy định rõ các hoạt động bị nghiêm cấm trong hành lang bảo vệ bờ biển. Cụ thể: Khai thác khoáng sản, trừ trường hợp đặc biệt được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận; Xây dựng mới, mở rộng công trình xây dựng, trừ công trình phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, phòng, chống thiên tai, sạt lở bờ biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa và các công trình xây dựng khác phục vụ lợi ích quốc gia, công cộng được Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương, HĐND, UBND cấp tỉnh có biển quyết định chủ trương đầu tư.
Các hoạt động bị hạn chế trong hành lang bảo vệ bờ biển, gồm: Khai thác nước dưới đất; Khai hoang, lấn biển; Cải tạo công trình đã xây dựng; Thăm dò khoáng sản, dầu khí; Hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ làm suy thoái hệ sinh thái vùng bờ, suy giảm giá trị dịch vụ của hệ sinh thái và cảnh quan tự nhiên…
Sau gần 10 năm thi hành, một số nội dung, quy định nêu trong Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đã không còn phù hợp với thực tiễn. Do đó, cơ quan chức năng đang xem xét điều chỉnh. Việc điều chỉnh Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo cũng là một trong các nhóm nhiệm vụ trọng tâm của Cục Biển và Hải đảo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) trong năm 2025. Theo đó, trong năm 2025, cơ quan này tiếp tục nghiên cứu, rà soát hệ thống chính sách, pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo để tiếp tục đề xuất điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cải cách hành chính, thúc đẩy phát triển. Tập trung xây dựng hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đảm bảo tiến độ và chất lượng.
Về sửa đổi, bổ sung Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, tại Hội nghị triển khai các nhiệm vụ trọng tâm năm 2025 của Cục Biển và Hải đảo (hôm 4/3), Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Minh Ngân cho rằng, cần tập trung sửa đổi, bổ sung Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo trên tinh thần phân cấp triệt để cho địa phương như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm: “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, nhằm tháo gỡ vướng mắc, hoàn thiện hành lang pháp lý cho công tác quản lý. Đồng thời, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong việc khai thác, sử dụng không gian biển, bảo vệ môi trường biển; giải quyết hài hòa quyền và lợi ích của Nhà nước, người khai thác, sử dụng tài nguyên biển và nhà đầu tư.
THIÊN THỤY
Bình luận