Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 24/11/2024 11:11
Thứ ba, 08/08/2023 14:08
TMO - Thiên tai diễn ra ngày càng bất thường, khốc liệt, để chủ động phòng, chống có hiệu quả thì việc dự báo, cảnh báo sớm có ý nghĩa rất quan trọng nhằm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra. Trong đó, việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động ngành khí tượng thủy văn.
Ngành khí tượng thuỷ văn có mối quan hệ chặt chẽ đối với hoạt động dự báo, giám sát, cung cấp các dịch vụ thông tin, dữ liệu cho các hoạt động kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, ứng phó biến đổi khí hậu, tham gia quản lý các nguồn tài nguyên (gió, nước, năng lượng mặt trời…). Tuy nhiên, theo đánh giá của Tổng cục Khí tượng Thủy văn, ở cấp Trung ương, công tác quản lý hoạt động khí tượng thủy văn chuyên dùng còn phân tán ở một số bộ quản lý theo ngành, lĩnh vực, như: Khí tượng hàng không, nông nghiệp, hàng hải, đường thủy nội địa, quốc phòng, phòng, chống thiên tai. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật điều chỉnh hoạt động dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện cũng chưa đầy đủ so với yêu cầu quản lý nhà nước về khí tượng thủy văn.
Đáng chú ý, mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn vẫn còn thưa. Dự báo định lượng mưa, mưa do bão còn hạn chế cả về độ chính xác và thời gian dự báo, đặc biệt là dự báo chi tiết lượng mưa theo giờ, mưa cực đoan cục bộ thời đoạn ngắn. Trong khi đó, ở cấp địa phương, hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực khí tượng thủy văn, vi phạm hành lang kỹ thuật công trình khí tượng thủy văn quốc gia chưa được giải quyết triệt để do vướng về cơ chế pháp lý và thực tiễn lịch sử.
Trước thực trạng trên, nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai cho ngành khí tượng thủy văn thông qua Quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch) là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Theo báo cáo của Tổng cục khí tượng Thủy văn (Bộ Tài nguyên và Môi trường), Quy hoạch nhằm mục tiêu phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia hiện đại, đồng bộ, đạt trình độ ngang bằng với các nước phát triển trong khu vực châu Á vào năm 2030; có khả năng lồng ghép, tích hợp, kết nối, chia sẻ với mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia và mạng lưới trạm khí tượng thủy văn toàn cầu, đáp ứng nhu cầu thông tin, dữ liệu. Đồng thời, nâng cao độ chính xác, tính kịp thời và độ tin cậy cho công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, phòng, chống thiên tai, phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trước diễn biến khó lường của tình hình thời tiết, ngành khí tượng thủy văn cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, hiện đại hóa, chuyển đổi số để nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai...
Trong giai đoạn 2021 - 2025, mạng lưới trạm khí tượng thủy văn được phát triển mới, nâng cấp, hiện đại hóa và bổ sung yếu tố tăng dầy mật độ trạm, đặc biệt là các khu vực thường xuyên xảy ra thiên tai khí tượng thủy văn, vùng trống số liệu, vùng chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu, quan trắc để khu vực ven biển, đảo, quần đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam. Tỷ lệ tự động hóa trên toàn mạng lưới trạm đạt trên 40% đối với trạm khí tượng bề mặt; 50% đối với trạm quan trắc mực nước; 100% đối với các trạm đo mưa độc lập; 20% đối với các trạm đo lưu lượng nước; chuyển sang tự động hoàn toàn 20% số trạm khí tượng thủy văn thủ công hiện có.
Giai đoạn 2026 - 2030, tỷ lệ tự động hóa trên toàn mạng lưới trạm khí tượng thủy văn đạt trên 95% đối với các trạm: Khí tượng, đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao, tối thiểu 40% đối với các trạm đo lưu lượng; chuyển sang tự động hoàn toàn 30% số trạm khí tượng thủy văn thủ công hiện có. Ngành khí tượng thủy văn tập trung đầu tư nâng cấp và hiện đại hóa các phòng thí nghiệm, hệ thống kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo khí tượng thủy văn, hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu.
Tiếp cận, nghiên cứu một số loại hình quan trắc mới: Trạm quan trắc trên các phương tiện di động như máy bay trinh sát khí tượng, tàu biển, vệ tinh khí tượng và viễn thám, tên lửa khí tượng, thiết bị không người lái và các công nghệ, thiết bị quan trắc hiện đại khác. Đến năm 2050, mật độ, khoảng cách trạm quan trắc tự động khí tượng thủy văn ở Việt Nam sẽ ngang bằng với các nước phát triển trên thế giới; đưa vào thử nghiệm trên mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia một số loại hình trắc mới.
Chiến lược phát triển Ngành Khí tượng Thủy văn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu đến năm 2030, tự động hóa đạt trên 95% đối với các trạm khí tượng, trạm đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao, tối thiểu 40% đối với các trạm đo lưu lượng. Để đạt được mục tiêu tự động hóa như Chiến lược đề ra, ngành Khí tượng Thủy văn xác định từ nay đến năm 2030 sẽ tập trung triển khai hiệu quả các dự án liên quan đến đầu tư cho mạng lưới quan trắc Khí tượng Thủy văn trong Kế hoạch đầu tư trung hạn 2021 - 2025 của Bộ TN&MT bằng các nguồn vốn trong và ngoài nước.
Xây dựng các dự án trọng tâm, trọng điểm trong Đề án tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho mạng lưới quan trắc, dự báo, cảnh báo và thông tin, dữ liệu Khí tượng Thủy văn giai đoạn 2023 - 2030 theo hướng hiện đại hóa, tự động hóa hoàn toàn; đề xuất cấp có thẩm quyền ưu tiên bố trí danh mục, ngân sách cho các dự án hiện đại và phát triển mạng lưới quan trắc Khí tượng Thủy văn quốc gia trong Kế hoạch đầu tư trung hạn các giai đoạn tiếp theo.
Hiện nay, biến đổi khí hậu diễn biến khó lường, các hiện tượng thời tiết, thủy văn, hải văn cực đoan có xu hướng ngày càng gia tăng về cường độ và tần suất lặp lại. Vấn đề lũ quét, sạt lở đất ở khu vực miền núi; khoảng trống số liệu khí tượng thủy văn ở Biển Đông, đặc biệt ở khu vực vùng biển và ven biển Tây Nam của đất nước, cùng các yêu cầu về hợp tác quốc tế, các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã và đang đặt ra thách thức đối với công tác khí tượng thủy văn trong giai đoạn tới.
Thời gian tới, ngành khí tượng thủy văn khẩn trương triển khai các giải pháp nhằm chuyển đổi số toàn diện lĩnh vực khí tượng thủy văn. Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới như: Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, các công nghệ khai thác dữ liệu lớn... Đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa hệ thống thông tin chuyên ngành; thu thập và khai thác thông tin từ vệ tinh đáp ứng yêu cầu theo dõi từ xa các diễn biến thời tiết trên phạm vi rộng và dự báo thời tiết, nhất là dự báo bão, áp thấp nhiệt đới, gió mùa; hoàn thiện trang bị mạng lưới radar thời tiết để theo dõi, dự báo các hệ thống thời tiết có quy mô nhỏ như: Tố, lốc, vòi rồng, mưa đá... Đồng thời, phối hợp xây dựng và triển khai hệ thống tài nguyên số về khí tượng thủy văn, dịch vụ thời tiết qua hệ thống truyền hình, web, ứng dụng, bao gồm thông tin quan trắc, dự báo phục vụ các ngành, lĩnh vực khai thác, sử dụng; nền tảng quản lý và phân tích dữ liệu lĩnh vực khí tượng thủy văn.
Mạnh Cường
Bình luận