Hotline: 0941068156
Thứ sáu, 26/12/2025 11:12
Thứ sáu, 26/12/2025 08:12
TMO – Việt Nam bước vào giai đoạn giảm sâu tới 67,5% lượng tiêu thụ cơ sở từ năm 2025-2029, tương ứng hạn ngạch nhập khẩu 1.300 tấn/năm. Giai đoạn 2030-2039 sẽ giảm 97,5% (tương ứng hạn ngạch nhập khẩu chỉ còn 100 tấn/năm) và tiến tới loại trừ hoàn toàn vào năm 2040.
Hệ thống pháp luật về bảo vệ tầng ozone của Việt Nam được xây dựng trên nền tảng thực thi nghĩa vụ tham gia Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal. Trong đó, Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định 06/2022 của Chính phủ là những dấu mốc quan trọng trong nỗ lực của Việt Nam. Hai tài liệu này đã đưa ra quy định chi tiết về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone, trong đó thiết lập cơ chế quản lý sản xuất, nhập khẩu, tiêu thụ và loại trừ các chất được kiểm soát theo lộ trình của Nghị định thư Montreal và Bản sửa đổi Kigali.
Ngoài ra, Nghị định 45/2022 của Chính phủ đưa ra chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, tạo cơ sở pháp lý để tăng tính tuân thủ trong thực thi. Các hướng dẫn kỹ thuật được cụ thể hóa tại Thông tư 01/2022/TT-BTNMT và đặc biệt là Thông tư 20/2023/TT-BTNMT, ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thu gom, vận chuyển, lưu giữ, tái chế, tái sử dụng và xử lý các chất được kiểm soát.

(Ảnh minh họa)
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, dựa trên Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất được kiểm soát được Chính phủ phê duyệt năm 2024, các giải pháp được triển khai đồng bộ theo 4 trụ cột chính. Một là, quản lý và loại trừ các chất được kiểm soát theo đúng lộ trình đã cam kết. Hai là, quản lý sản phẩm và thiết bị sử dụng hợp chất hóa học chứa carbon, hydro, clo, flo (HCFC), khí nhà kính tổng hợp dùng trong điều hòa, tủ lạnh, chất đẩy (HFC) trên cơ sở kiểm soát chặt chẽ giá trị tiềm năng làm nóng lên toàn cầu (GWP), qua đó thúc đẩy chuyển đổi sang các môi chất lạnh thân thiện hơn với khí hậu. Ba là, quản lý các chất được kiểm soát theo vòng đời, từ thu gom, lưu giữ, vận chuyển đến tái sử dụng, tái chế hoặc tiêu hủy an toàn khi thiết bị hết thời gian sử dụng. Bốn là, thúc đẩy làm mát bền vững, gắn bảo vệ tầng ozone với sử dụng năng lượng hiệu quả và giảm phát thải khí nhà kính trong dài hạn.
Để hiện thực hóa Kế hoạch trên, năm 2025, khung chính sách tiếp tục được hoàn thiện với Nghị định 119/2025 của Chính phủ, sửa đổi, bổ sung một số quy định của Nghị định 06/2022, cùng Thông tư 08/2025/TT-BNNMT. Các văn bản này làm rõ hơn lộ trình hạn ngạch nhập khẩu, yêu cầu quản lý theo vòng đời đối với các chất HCFC, HFC, đồng thời siết chặt tiêu chuẩn kỹ thuật đối với thiết bị, sản phẩm sử dụng môi chất lạnh có chỉ số GWP cao.
Với HCFC, Việt Nam đã bước vào giai đoạn giảm sâu tới 67,5% lượng tiêu thụ cơ sở từ năm 2025-2029, tương ứng hạn ngạch nhập khẩu 1.300 tấn/năm. Giai đoạn 2030-2039 sẽ giảm 97,5% (tương ứng hạn ngạch nhập khẩu chỉ còn 100 tấn/năm) và tiến tới loại trừ hoàn toàn vào năm 2040. Còn với HFC, lộ trình được triển khai theo Bản sửa đổi Kigali, bắt đầu ngưng ở mức tiêu thụ cơ sở từ năm 2024, sau đó giảm dần 10%, 30%, 50% và 80% lượng tiêu thụ trong các giai đoạn tiếp theo.
Đáng chú ý, việc quy định giá trị tiềm năng nóng lên toàn cầu (GWP) tối đa đối với từng nhóm thiết bị và sản phẩm (như điều hòa không khí, thiết bị lạnh thương mại, thiết bị lạnh vận tải, thiết bị lạnh công nghiệp, thiết bị phòng cháy chữa cháy…), với các mốc giảm dần lượng phát thải khí nhà kính từ năm 2029 đến 2045. Điều này buộc doanh nghiệp phải chủ động chuyển đổi công nghệ, thay thế môi chất lạnh truyền thống bằng các chất có GWP thấp hoặc gần bằng 0.
Theo quy định hiện hành, Việt Nam quản lý chặt chẽ toàn bộ vòng đời của các chất làm suy giảm tầng ozone và các chất HFC - từ sản xuất, nhập khẩu, sử dụng cho đến thu gom, tái chế và tiêu hủy. Trách nhiệm được phân định cụ thể tới chủ sở hữu thiết bị, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và các đơn vị dịch vụ xử lý, đi kèm nghĩa vụ báo cáo định kỳ về tình hình sử dụng các chất được kiểm soát trước ngày 15/1 hàng năm. Khái niệm “làm mát bền vững” lần đầu được đưa vào văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện cách tiếp cận mới, không chỉ kiểm soát chất làm suy giảm tầng ozone mà còn tính đến hiệu quả năng lượng và tác động khí hậu dài hạn./.
THANH BÌNH
Bình luận