Hotline: 0941068156
Thứ sáu, 12/09/2025 00:09
Thứ năm, 11/09/2025 15:09
TMO – Năm 2025, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8,3-8,5%, đồng thời kỳ vọng mức tăng trưởng ấn tượng này sẽ là nền tảng để kinh tế Việt Nam tăng trưởng từ hai con số trở lên trong những năm tiếp theo.
Những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế mạnh trong khu vực và trên thế giới, điểm sáng của bức tranh kinh tế toàn cầu nhờ duy trì tốt đà tăng trưởng. Điều này cho thấy sự nhạy bén, linh hoạt, năng động, sáng tạo, quyết liệt của toàn hệ thống chính trị, từ thiết lập cơ chế chính sách đến quá trình triển khai thực hiện và đây được xem là nền tảng, tiền đề để kinh tế Việt Nam tiếp tục bứt phá trong thời gian tới.
Theo đó, giai đoạn 2025-2030, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại và thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Để hiện thực hóa mục tiêu đề ra, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 từ 8,3-8,5% và tăng trưởng những năm tiếp theo đạt từ hai con số. Câu hỏi đặt ra, giai đoạn sau năm 2025, Việt Nam phải làm gì để tăng trưởng đạt từ 10% trở lên?
Người dân và khách du lịch vui chơi trong kỳ nghỉ lễ.
Theo các chuyên gia, qua nghiên cứu kinh nghiệm tăng trưởng kinh tế hai con số của một số quốc gia trên thế giới, kết hợp với đánh giá thực trạng và khả năng tăng trưởng của Việt Nam, có thể khẳng định, mục tiêu tăng trưởng hai con số là yêu cầu thực tiễn cấp thiết. Mục tiêu này nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển với các quốc gia đi trước, nâng cao năng lực nội sinh và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, từ đó khẳng định vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh đó, đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu sâu sắc nền kinh tế trở thành nhiệm vụ trọng tâm nhằm tránh rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, tạo ra bước đột phá phát triển toàn diện. Trên cơ sở đó, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế hai con số trong giai đoạn tới.
Thứ nhất, cần đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng được xem là giải pháp cốt lõi cho sự phát triển bền vững của Việt Nam. Quá trình chuyển đổi này đòi hỏi nền kinh tế chuyển từ việc chủ yếu dựa vào gia tăng số lượng các yếu tố đầu vào như vốn, tài nguyên và sức lao động sang mô hình tăng trưởng dựa trên chất lượng, năng suất và đổi mới sáng tạo, trong đó công nghệ và yếu tố con người trí tuệ đóng vai trò trung tâm.
Điều này đồng nghĩa với việc trí tuệ và sáng tạo của con người trở thành yếu tố quyết định, chi phối toàn bộ quá trình sản xuất và phát triển kinh tế. Bài học từ các quốc gia tăng trưởng cao như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc cho thấy thể chế phát triển vững chắc cùng với chiến lược đổi mới công nghệ, coi trọng lao động chất lượng cao là những yếu tố quyết định giúp những quốc gia này đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững trong thời gian dài. Việt Nam cần tiếp thu và vận dụng hiệu quả những bài học này để từng bước nâng cao năng lực nội sinh, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và thích ứng linh hoạt với sự biến động của môi trường kinh tế toàn cầu.
Thứ hai, cần kiến tạo các động lực tăng trưởng mới, trong đó thể chế giữ vai trò trung tâm. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định thể chế hiện là “điểm nghẽn của các điểm nghẽn”, đòi hỏi sự đột phá trong tư duy quản lý nhà nước, chuyển từ mô hình “nhà nước kiểm soát” sang “nhà nước điều tiết khi cần thiết”, để thị trường trở thành động lực chính thúc đẩy phát triển. Việt Nam cần thiết lập một hệ thống thể chế năng động, minh bạch, tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo và phát huy tối đa sức mạnh của các chủ thể kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó, việc đánh giá và quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên biển và tài nguyên phi truyền thống, cùng với phát triển các ngành công nghiệp chế biến dựa trên công nghệ cao, là điều kiện tiên quyết để nâng cao tỷ trọng giá trị gia tăng quốc gia, tránh phụ thuộc vào xuất khẩu tài nguyên thô.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được xác định là trục quan trọng trong chiến lược phát triển tổng thể. Việt Nam cần đổi mới mạnh mẽ hệ thống đào tạo, nâng cao chuẩn mực đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế và tập trung phát triển nhân lực cho các ngành chiến lược. Đồng thời, cần xây dựng môi trường thu hút nhân tài, thúc đẩy tinh thần sáng tạo và khả năng thích ứng với kinh tế số. Đây là bài học kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển nhanh, nơi nguồn nhân lực kỹ thuật và đổi mới sáng tạo đóng vai trò then chốt trong thúc đẩy tăng trưởng.
Thứ tư, xây dựng nền hành chính công phục vụ, liêm chính và chuyển đổi mô hình quản trị sang quản trị thích ứng, lấy sứ mệnh phát triển làm trung tâm, là giải pháp then chốt để nâng cao hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch trong điều hành phát triển. Đồng thời, nâng cao năng lực quản trị nhà nước ở ba cấp độ - thể chế, chính sách và hành chính chuyên nghiệp, linh hoạt - sẽ giúp tránh các tình trạng phân mảnh, cản trở đổi mới và bị chi phối bởi lợi ích nhóm.
Thứ năm, khai thác hiệu quả lợi thế của hội nhập quốc tế sâu rộng, hình thành các “điểm” thể chế đột phá như khu tự do đổi mới sáng tạo công nghệ cao và khu thương mại tự do chuyên ngành với thể chế vượt trội theo thông lệ quốc tế sẽ tạo sức hút đầu tư chất lượng cao, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp mới và gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Tăng trưởng hai con số không chỉ là lựa chọn mà là tất yếu để chuyển đổi nền kinh tế từ gia công sang sáng tạo, dựa trên tri thức và công nghệ. Tổng hòa các giải pháp trên, cùng với sự lãnh đạo kiên định của Đảng và sự đồng thuận xã hội, sẽ tạo bước đột phá cần thiết để Việt Nam hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số, xây dựng nền kinh tế hiện đại, bền vững và hội nhập sâu rộng./.
VŨ MINH
Bình luận