Hotline: 0941068156
Thứ sáu, 05/09/2025 04:09
Thứ năm, 04/09/2025 19:09
TMO – Ở giai đoạn này sẽ tích hợp hai chương trình mục tiêu quốc gia thành một chương trình thống nhất. Đây không chỉ là sự sắp xếp về mặt hành chính mà còn là sự khẳng định quan điểm phát triển giảm nghèo bền vững là mục tiêu cốt lõi, trong khi xây dựng nông thôn mới đóng vai trò khung phát triển bao trùm, tạo không gian để gắn kết tăng trưởng kinh tế nông thôn với nâng cao thu nhập và giảm nghèo đa chiều.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, thực hiện kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và hai phong trào lớn “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” cùng “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021-2025, cơ quan này đã chủ trì xây dựng Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2035. Đây là bước đi quan trọng trong quá trình chuẩn bị thể chế, khung khổ pháp lý và phương thức triển khai mới, bảo đảm phù hợp với Luật Đầu tư công và các quy định hiện hành.
Quảng Ninh - địa phương tiên phong trong xây dựng nông thôn mới. (Ảnh minh họa)
Chương trình được xác định triển khai trên phạm vi toàn quốc, bao trùm 34 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 2.621 xã, 687 phường, 13 đặc khu và toàn bộ thôn, bản. Phạm vi rộng lớn cho thấy quy mô và tính bao trùm, đồng thời đòi hỏi một cách tiếp cận đột phá, khắc phục hạn chế còn tồn tại trong giai đoạn trước như tỷ lệ tái nghèo cao ở một số địa bàn, tiến độ giải ngân chậm, nhận thức chưa đầy đủ của một số cấp ủy, chính quyền hay tình trạng phong trào còn nặng về hình thức.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, một trong những điểm mới có tính nền tảng của giai đoạn 2026-2035 là mô hình quản trị được thiết kế theo cơ chế hai cấp chính quyền (tỉnh, xã), thực hiện nguyên tắc “6 rõ” – rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ kết quả. Lần đầu tiên, công cụ giám sát số hóa và công khai dữ liệu theo thời gian thực được đưa vào như một phương thức bảo đảm minh bạch, giảm chồng chéo và nâng cao hiệu quả điều hành.
Giai đoạn này đánh dấu việc tích hợp hai chương trình mục tiêu quốc gia thành một chương trình thống nhất. Đây không chỉ là sự sắp xếp về mặt hành chính mà còn là sự khẳng định quan điểm phát triển: giảm nghèo bền vững là mục tiêu cốt lõi, trong khi xây dựng nông thôn mới đóng vai trò khung phát triển bao trùm, tạo không gian để gắn kết tăng trưởng kinh tế nông thôn với nâng cao thu nhập và giảm nghèo đa chiều. Việc lồng ghép này giúp tránh tình trạng dàn trải nguồn lực, đồng thời hướng đến giải pháp thực chất, tập trung vào nhóm đối tượng yếu thế, bảo đảm tính bền vững.
Cùng với đó, bộ tiêu chí quốc gia giai đoạn 2026-2030 được thiết kế lại theo ba nhóm xã đặc thù, phù hợp với điều kiện phát triển và đặc điểm địa bàn. Đây là bước chuyển quan trọng từ tư duy “một bộ tiêu chí cho mọi xã” sang cách tiếp cận linh hoạt, đặt thực tiễn làm trung tâm. Ngoài chuẩn xã nông thôn mới, chương trình còn thí điểm mô hình “xã nông thôn mới hiện đại” với yêu cầu vượt trội về hạ tầng thông minh, cảnh quan sinh thái, dịch vụ công, văn hóa tiên tiến, đồng thời nghiên cứu bổ sung các chỉ số “hạnh phúc, an sinh, bao trùm” làm căn cứ đánh giá chất lượng phát triển.
Điểm nhấn khác của chương trình là định hướng công nghệ và tăng trưởng xanh. Các nội dung mới tập trung vào ứng dụng khoa học – công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số toàn diện, đồng thời lồng ghép với kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp và các chuẩn mực phát triển bền vững quốc tế. Một số mô hình thí điểm như “thôn thông minh”, “làng hạnh phúc” gắn với thương mại điện tử, truy xuất nguồn gốc hay phát triển sinh kế số đang được nghiên cứu nhằm mở ra hướng đi hiện đại cho nông thôn Việt Nam.
Song hành với đó là tư tưởng phân cấp, phân quyền mạnh mẽ. Trung ương giữ vai trò xây dựng khung, ban hành quy chuẩn và định mức phân bổ nguồn lực, còn địa phương được trao quyền tự quyết tối đa, từ khâu tổ chức đến lựa chọn giải pháp cụ thể, gắn liền với điều kiện thực tế. Cách tiếp cận này giúp phát huy vai trò chủ thể của người dân và chính quyền địa phương, đồng thời tạo cơ chế khuyến khích, khen thưởng và chế tài rõ ràng đối với các đơn vị tiên tiến hoặc chậm tiến độ…/.
LÝ LAN
Bình luận