Hotline: 0941068156
Thứ hai, 22/12/2025 20:12
Thứ hai, 22/12/2025 18:12
TMO - Các địa phương đều đã quy hoạch vùng sản xuất, nhưng khoảng trống lớn nhất là chưa xác định rõ trồng cây gì. Tuy nhiên, Đề án vùng nguyên liệu giải quyết được vấn đề này, giúp địa phương và doanh nghiệp xác định các loại cây chủ lực để hợp tác đầu tư, từ đó hoàn thành “sứ mệnh lịch sử” của giai đoạn thí điểm.
Đề án vùng nguyên liệu sau 4 năm thí điểm triển khai đã hình thành các vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn với tổng diện tích vùng nguyên liệu tại 11 tỉnh thuộc dự án đạt gần 170.000 ha, tăng khoảng 20% so với trước khi triển khai đề án. Trong số này, hơn 71% diện tích có liên kết tiêu thụ với doanh nghiệp, thay đổi căn bản cách tổ chức sản xuất theo hướng hàng hóa và thị trường. Kết quả này cho thấy vùng nguyên liệu chỉ phát huy hiệu quả khi được gắn chặt với cây trồng chủ lực và lợi thế sinh thái của từng vùng.
Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tại Trung du và miền núi phía Bắc, cây ăn quả được tổ chức theo cụm hợp tác xã (HTX) - doanh nghiệp, hình thành các vùng xoài, nhãn, chuối có mã số vùng trồng, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu chính ngạch. Ở Tây Nguyên, cà phê được xác định là trục chính, đi kèm đầu tư kho bảo quản, sân phơi, đường nội đồng, giúp giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng công suất chế biến. Trong khi đó, khu vực đồng bằng sông Cửu Long, lúa gạo và cây ăn quả tiếp tục là nền tảng, với hệ thống trạm bơm, cống điều tiết và giao thông nội vùng được đầu tư đồng bộ để giảm chi phí logistics.
.png)
(Ảnh minh họa)
Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn nhấn mạnh, chi phí vận chuyển nông sản tại nhiều vùng giảm 20-30%, thời gian vận chuyển rút ngắn còn một nửa so với trước. Năng suất cây trồng tăng trung bình 10-15%, giá trị sản xuất trên mỗi hecta tăng khoảng 20-25%. Thu nhập của nông dân tại các vùng dự án tăng đều 5-10% mỗi năm, phản ánh hiệu quả kinh tế trực tiếp của việc đầu tư đúng vào cây trồng chủ lực và hạ tầng phục vụ vùng nguyên liệu.
Đáng chú ý, vai trò của HTX. Thay vì chỉ là đơn vị sản xuất, nhiều HTX đã trở thành trung tâm điều phối vùng nguyên liệu, quản lý chất lượng, tổ chức sơ chế và kết nối doanh nghiệp. Tỷ lệ nông sản tiêu thụ qua HTX tăng từ 35% lên trên 57%. Hơn 90 chuỗi liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ được hình thành, trong đó nhiều chuỗi có hợp đồng bao tiêu dài hạn, giúp ổn định đầu ra và giảm rủi ro thị trường.
Đầu tư hạ tầng từ nguồn vốn dự án tạo ra nhiều công trình mang tính “đòn bẩy”, như đường vào vùng trồng gắn với nhà máy chế biến, kho bảo quản gắn với vùng cà phê, hay trạm bơm phục vụ cánh đồng lúa tập trung, tạo hiệu quả cao hơn hẳn so với đầu tư dàn trải…
Theo Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam, các địa phương đều đã quy hoạch vùng sản xuất, nhưng khoảng trống lớn nhất là chưa xác định rõ trồng cây gì cho từng địa phương. Đề án vùng nguyên liệu giải quyết được vấn đề này, giúp địa phương và doanh nghiệp xác định các loại cây chủ lực để hợp tác đầu tư, từ đó hoàn thành “sứ mệnh lịch sử” của giai đoạn thí điểm. Trên cơ sở đó, ông đề nghị địa phương triển khai đồng bộ mã số vùng trồng đối với các cây chủ lực đã được xác định. Cùng với đó, tăng cường ứng dụng công nghệ, thực hành nông nghiệp tốt (GAP) và truy xuất nguồn gốc, coi đây là điều kiện bắt buộc để tham gia chuỗi giá trị và thị trường xuất khẩu.
Về bảo hiểm cây trồng, vật nuôi, nhằm giảm rủi ro cho nông dân, bảo đảm an sinh và hướng tới tăng trưởng xanh, tăng trưởng xanh không chỉ là giảm phát thải, mà là nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nông thôn. Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ xây dựng đề án vùng nguyên liệu ở quy mô toàn quốc. Những tỉnh đã có danh sách cây chủ lực sẽ tiếp tục mở rộng và hình thành vùng nguyên liệu tập trung. Trên nền tảng quy hoạch cây trồng chủ lực cấp quốc gia, việc cụ thể hóa xuống cấp tỉnh sẽ giúp giám sát chặt hơn, đồng thời tạo cam kết dài hạn với doanh nghiệp về tính ổn định của vùng nguyên liệu…/.
LÝ LAN
Bình luận