Hotline: 0941068156
Thứ ba, 05/11/2024 12:11
Thứ ba, 05/11/2024 06:11
TMO - Việt Nam hiện đang bảo tồn và lưu giữ hơn 80.000 nguồn gen đặc hữu, quý hiếm. Đây là nguồn vật liệu vô cùng quý, phục vụ cho công tác chọn tạo, lai tạo các giống mới có năng suất, chất lượng tốt, giá trị cao hơn. Do đó, việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen là nhiệm vụ có tính chiến lược và cần đẩy mạnh triển khai.
Tính đến năm 2023, thông qua các nhiệm vụ bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen, tổng số nguồn gen được thu thập và lưu giữ được tại Việt Nam là 80.911, trong đó có 47.772 nguồn gen thực vật nông nghiệp, 5.768 nguồn gen cây lâm nghiệp, 7.039 nguồn gen dược liệu, 891 nguồn gen vật nuôi, 391 nguồn gen thủy sản, 19.050 nguồn gen vi sinh vật.
Việt Nam xếp thứ 14 trên thế giới về các quốc gia có mức độ đa dạng sinh học với nhiều loài động, thực vật, trong đó nhiều loài (chiếm khoảng 6,5% số loài có trên thế giới) có giá trị sử dụng cao trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Thống kê hiện nay, Việt Nam có khoảng 62.600 loài sinh vật đã được xác định, trong đó hơn 20.000 loài thực vật trên cạn và dưới nước; 3.500 loài động vật không xương sống và cá nước ngọt; 1.932 loài động vật có xương sống trên cạn và hơn 11.000 loài sinh vật biển...
Trong bối cảnh hiện nay, biến đổi khí hậu trở nên nghiêm trọng hơn và ngày càng tác động tiêu cực, gây xói mòn, mất mát tài nguyên di truyền, vì thế vấn đề bảo tồn và khai thác, sử dụng bền vững nguồn gen càng trở nên cấp thiết. Do đó, ngay từ năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” (gọi tắt là Chương trình) và giao Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan đầu mối thực hiện.
Sau gần 10 năm triển khai, Chương trình đã bảo tồn, lưu giữ được hơn 80.000 nguồn gen đặc hữu, quý hiếm (bao gồm cả nguồn gen địa phương của Việt Nam và nguồn gen nhập từ bên ngoài). Đây là nguồn vật liệu vô cùng quý, phục vụ cho công tác chọn tạo, lai tạo các giống mới có năng suất, chất lượng tốt hơn, giá trị cao hơn.
Trong xu thế hội nhập, việc trao đổi vật liệu di truyền, nguồn lực và tri thức giữa các quốc gia và các nền kinh tế là xu thế tất yếu. Vấn đề đặt ra là chủ quyền quốc gia của Việt Nam đối với những nguồn gen, đặc biệt là nguồn gen bản địa trong trao đổi phải căn cứ trên cơ sở mang tính pháp lý, đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau và các bên cùng có lợi.
Hiện nay, tại Việt Nam nhiều nguồn gen đã được đánh giá ban đầu, được khai thác và ứng dụng trong sản xuất, đời sống như Sâm Ngọc Linh, tôm mũ ni, cá hô, lúa bản địa chất lượng cao, cây vù hương... góp phần nâng cao giá trị gia tăng của các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là ngành nông nghiệp.
Một số nguồn gen đã phát triển thành sản phẩm hàng hóa tập trung, được xây dựng và bảo hộ thương hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, tạo việc làm cho lao động khu vực nông thôn như: Cam xã Đoài, bưởi Diễn, quýt Bắc Kạn, hồng không hạt, miến dong, vịt bầu cổ xanh, Gạo bao thai Chợ Đồn, Chè shan tuyết xã Bằng Phúc huyện Chợ Đồn...Theo xu hướng hiện nay, Việt Nam đã và đang hướng tới thúc đẩy phát triển nền kinh tế dựa trên nền tảng sinh học, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, Cách mạng công nghiệp 4.0 đã cho thấy tầm quan trọng và vai trò của nguồn gen bản địa trong phát triển kinh tế-xã hội.
Bảo tồn nguồn gen đặc hữu có ý nghĩa quan trọng. (Ảnh minh hoạ: KHĐS).
Mặc dù vậy Việt Nam cần tiếp tục khai thác và phát triển nhanh, mạnh các nguồn gen có giá trị kinh tế thành sản phẩm thương mại, các nguồn gen quý hiếm, có giá trị kinh tế thành các giống bổ sung vào bộ giống quốc gia tạo ra một số sản phẩm chủ lực phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.
Do vậy, việc triển khai “Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” cần tiếp tục ưu tiên phát triển nghiên cứu cơ bản, chuyên sâu về nguồn gen (số hóa gen theo chuẩn quốc tế, duy trì bảo tồn, đăng ký sở hữu trí tuệ...) kết hợp với nghiên cứu truyền thống trên các nguồn gen động vật, thực vật và vi sinh vật.
Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng đã đề xuất củng cố, phát triển mạng lưới tổ chức bảo tồn gen; lồng ghép chính sách bảo tồn gen với các chính sách về phát triển nông nghiệp-nông dân-nông thôn. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho công tác nghiên cứu, bảo tồn gen; tăng cường thu hút nguồn lực ngoài ngân sách đầu tư cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen; đẩy mạnh nghiên cứu công nghệ mới.
Một số vấn đề đang được nhiều chuyên gia đề xuất là Việt Nam cần chú trọng xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về nguồn gen thống nhất trong toàn quốc; tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức trong công tác bảo tồn nguồn gen; hoàn thiện khung pháp lý về bảo tồn nguồn gen. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác trong nước (đặc biệt là trong mạng lưới các tổ chức bảo tồn gen), hợp tác quốc tế về công tác quỹ gen, tăng cường trao đổi nhập nội các nguồn gen có giá trị kinh tế, y tế và khoa học.
Theo Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ, trong thời gian tới, để hoàn thành các mục tiêu đặt ra, góp phần thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam cần tiếp tục tăng cường, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ phục vụ công tác bảo tồn, lưu giữ, đánh giá nguồn gen; gia tăng nguồn lực khoa học công nghệ nhằm bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn gen góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ nguồn tài nguyên của đất nước. Bên cạnh đó, nghiên cứu nguồn gen lưu trữ bảo tồn cần có cơ chế phù hợp nhất để không mất nguồn gen… nhằm bảo tồn, bảo vệ hiệu quả nhất, hướng tới phát triển nguồn gen bền vững tại Việt Nam.
Trần Hằng
Bình luận