Hotline: 0941068156
Thứ ba, 14/10/2025 16:10
Thứ ba, 14/10/2025 11:10
TMO - Phát triển điện khí LNG không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn là bước đi chiến lược trong quá trình chuyển đổi năng lượng từ nền kinh tế sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang nền kinh tế carbon thấp. Tuy nhiên, chính sách phát triển điện khí LNG cần được quy hoạch đồng bộ và cụ thể hóa thành các nghị quyết chuyên đề.
Việt Nam cam kết đưa mức phát thải ròng về 0 vào 2050 tại COP26, đồng thời tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch. Để hiện thực hóa cam kết trước quốc tế, thời gian qua, Việt Nam đã triển khai nhiều giải pháp nhằm kéo giảm phát thải, nhất là về phát triển năng lượng. Trong đó, điện khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) đang trở thành một trong những lựa chọn chiến lược, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng và giảm phát thải.
Theo Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, Việt Nam ưu tiên, khuyến khích phát triển các loại hình điện sinh khối, điện sản xuất từ rác, chất thải rắn nhằm tận dụng phụ phẩm nông lâm nghiệp, chế biến gỗ, thúc đẩy trồng rừng, xử lý môi trường. Năm 2030, tông công suất nguồn điện sinh khối khoảng 1.523 - 2.699 MW; điện sản xuất từ rác, chất thải rắn khoảng 1.441 - 2.137 MW; điện địa nhiệt và năng lượng mới khác khoảng 45 MW. Định hướng đến năm 2050, điện sinh khối khoảng 4.829 - 6.960 MW; điện sản xuất từ rác, chất thải rắn khoảng 1.784 - 2.137 MW; điện địa nhiệt và năng lượng mới khác khoảng 464 MW.
(Ảnh minh họa)
Về cơ cấu nguồn điện, Quy hoạch đặt mục tiêu điện sinh khối chiếm từ 1.523 - 2.699 MW, điện sản xuất từ rác 1.441 - 2.137 MW, điện địa nhiệt và năng lượng mới khác khoảng 45 MW; có thể phát triển quy mô lớn hơn nếu đủ nguồn nguyên liệu, hiệu quả sử dụng đất cao, có nhu cầu xử lý môi trường, hạ tầng lưới điện cho phép, giá điện và chi phí truyền tải hợp lý; nhiệt điện khí trong nước 10.861 - 14.930 MW (chiếm tỷ lệ 5,9 - 6,3%); nhiệt điện LNG 22.524 MW (chiếm tỷ lệ 9,5 - 12,3%).
Khí LNG từ lâu được mệnh danh là “năng lượng hóa thạch xanh”. Khi hóa lỏng, thể tích của khí tự nhiên giảm tới 600 lần, giúp tối ưu chi phí vận chuyển và lưu trữ. LNG không màu, không mùi, không ăn mòn và đặc biệt là nhiên liệu hóa thạch sạch nhất hiện nay.
So với các nhiên liệu truyền thống, LNG thải ra ít hơn 45 – 50% CO₂ so với than đá và ít hơn 30% so với dầu mỏ. Ngoài ra, khí thải nitơ, sulfur, thủy ngân và bụi mịn (PM 2.5) đều ở mức rất thấp. Điều này không chỉ giúp cải thiện chất lượng không khí, mà còn làm giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường và bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Về mặt an toàn, LNG nhẹ hơn nước, nên trong trường hợp rò rỉ hoặc tràn, chất khí sẽ nhanh chóng bay hơi và ít gây tác động tới môi trường nước – một ưu thế vượt trội so với xăng dầu.
Theo các chuyên gia, điện khí LNG không chỉ là giải pháp “xanh hóa” hệ thống điện mà còn là trụ cột trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, là hướng đi tất yếu để đảm bảo cung cấp điện ổn định, nhanh chóng cho nền kinh tế và hỗ trợ chuyển dịch năng lượng ở Việt Nam. Bởi nguồn điện khí có khả năng chạy nền, khởi động nhanh, sẵn sàng bổ sung và cung cấp điện nhanh cho hệ thống điện quốc gia khi các nguồn điện năng lượng tái tạo giảm phát, đồng thời ít phát thải CO2. Có thể thấy, phát triển điện khí LNG được xem là hướng đi tất yếu trong bối cảnh Việt Nam kiên định mục tiêu phát triển năng lượng sạch, giảm phát thải và thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050.
Tuy nhiên, dù có nhiều lợi thế, quá trình phát triển điện khí LNG vẫn đang đối mặt với không ít thách thức. Theo các chuyên gia, việc thiếu cơ chế chính sách cho toàn bộ chuỗi hoạt động LNG từ nhập khẩu, lưu trữ, vận chuyển đến tiêu thụ đang là “điểm nghẽn” lớn. Ngoài ra, việc thiếu hành lang pháp lý thay thế cho bảo lãnh Chính phủ khiến doanh nghiệp khó ký kết hợp đồng mua bán điện dài hạn. Việt Nam hiện chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật đầy đủ cho thiết kế, xây dựng và vận hành cơ sở hạ tầng LNG, trong khi giá điện LNG vẫn chưa có cơ chế định giá cụ thể, gây khó khăn trong thu hút đầu tư.
Để đạt được mục tiêu theo quy hoạch đề ra, các chuyên gia cho rằng, chính sách phát triển điện khí LNG cần được quy hoạch đồng bộ và cụ thể hóa thành các nghị quyết chuyên đề của Quốc hội. Hệ thống pháp lý cần thống nhất, rõ ràng, bảo đảm khả năng huy động vốn đầu tư và vận hành theo thông lệ quốc tế. Muốn thu hút nguồn vốn cho phát triển điện khí LNG, cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, quy chuẩn kỹ thuật và cơ chế thương mại minh bạch, bảo đảm tính khả thi và an toàn đầu tư. Ngoài ra, việc đồng bộ hóa các luật liên quan là điều kiện tiên quyết để đẩy nhanh tiến độ các dự án LNG quy mô hàng tỷ USD, đáp ứng nhu cầu điện năng tăng cao của đất nước.
Phát triển điện khí LNG không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn là bước đi chiến lược trong quá trình chuyển đổi năng lượng từ nền kinh tế sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang nền kinh tế carbon thấp. Khi các dự án điện khí LNG trên cả nước lần lượt đi vào hoạt động, Việt Nam sẽ có thêm nguồn điện ổn định, thân thiện với môi trường, góp phần bảo vệ môi trường, cải thiện chất lượng không khí và củng cố vị thế quốc gia trong tiến trình thực hiện cam kết Net Zero toàn cầu.
PHẠM DUNG
Bình luận