Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 23/03/2025 04:03
Thứ hai, 17/03/2025 13:03
TMO - Căn cứ kịch bản nguồn nước lần đầu trên lưu vực sông Srêpốk, nguồn nước trên lưu vực vẫn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tình trạng thiếu nước nếu không khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả.
Trên lưu vực sông Srêpốk, tổng lượng mưa từ tháng 8 đến tháng 12/2024 trên lưu vực sông Srêpôk phổ biến thấp hơn trung bình nhiều năm (TBNN) cùng kỳ từ 10% đến 30%. Đến tháng 12/2024, tổng lượng mưa trên lưu vực phổ biến cao hơn từ 10% đến 20%, đặc biệt tại Ea H’leo, M’Đrắk và Đắc Mil có tổng lượng mưa cao hơn từ 60% đến 100% so với TBNN cùng thời kỳ.
Tổng lượng dòng chảy trên lưu vực sông Srêpốk trong mùa lũ từ tháng 8 đến tháng 12/2024, phổ biến ở mức xấp xỉ và thấp hơn trung bình thời kỳ (TBTK) từ 12% đến 67%; riêng dòng chảy trên sông Ea Krông ở mức tương đương và cao hơn TBTK từ 20% đến 34%.
Tổng trữ lượng nước dưới đất có thể khai thác trên toàn lưu vực khoảng 2,1 tỷ m3/năm. Hiện nay, có khoảng 1.005 công trình, đang khai thác khoảng 729,51 triệu m³/năm (khoảng 34,9%) tập trung phần lớn trong tầng chứa nước trong đá bazan β(n2-qp) và chủ yếu để cấp nước cho sinh hoạt và tưới cho cây công nghiệp.
Trên lưu vực sông Srêpốk có khoảng 48 hồ chứa thủy điện với tổng công suất lắp máy 1.103 MW. Trong đó, có 04 hồ thủy điện lớn (Buôn Tua Srah, Buôn Kuốp, Srêpốk 3 và Srêpốk 4) có vai trò điều tiết chính cho vùng hạ du sông Srêpốk. Tính đến ngày 01/01/2025, lượng nước tích trữ tại 04 hồ nêu trên vào khoảng 1,06 tỷ m3 đạt khoảng 97% dung tích thiết kế, cao hơn so với cùng kỳ năm 2024 khoảng 1,1% và cao hơn 2,4% TBTK.
Nguồn nước trên lưu vực sông Srêpốk giữ vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế-xã hội tại các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.
Trên lưu vực sông còn có khoảng 786 hồ chứa thủy lợi với dung tích toàn bộ khoảng 1,05 tỷ m3. Trong đó, có 25 hồ có dung tích từ 5 triệu m3 trở lên, 68 hồ có dung tích từ 01 triệu m3 trở lên đến dưới 5 triệu m3, và còn lại khoảng 718 hồ chứa có quy mô dưới 01 triệu m3. Tổng nhu cầu khai thác, sử dụng nước của các ngành (trừ thủy điện) trên lưu vực sông Srêpốk khoảng 1,65 tỷ m3.
Tổng nhu cầu khai thác, sử dụng nước cho sinh hoạt, công nghiệp trên lưu vực trong mùa cạn 2025 khoảng 50,5 triệu m3. Tổng công trình cấp nước tập trung trên toàn lưu vực là 198 công trình với lượng nước khai thác khoảng 170.459 m3/ngày đêm. Trong đó, lượng khai thác từ nước mặt chiếm 15% và từ nước dưới đất chiếm 85% Tổng nhu cầu khai thác, sử dụng nước cho nông nghiệp trên lưu vực sông Srêpốk khoảng 1,48 tỷ m3 và chủ yếu tưới cho các loại cây chủ lực như: lúa, cà phê, hồ tiêu, cao su.... Tuy nhiên, chỉ khoảng 20% diện tích đất nông nghiệp được đáp ứng bởi các hệ thống công trình thủy lợi, thủy điện trong vùng, phần diện tích còn lại chủ yếu khai thác từ nguồn nước mưa và nguồn nước dưới đất.
Sản lượng điện dự kiến trong mùa cạn năm 2025 của 10 nhà máy thủy điện thuộc Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Srêpốk đạt 1.306 triệu kWh, cao hơn khoảng 02% so với sản lượng điện cùng kỳ năm 2024 và thấp hơn khoảng 10% so với sản lượng điện TBTK. Theo đó, nhu cầu nước phát điện của 10 hồ chứa vào khoảng 6,9 tỷ m3, tăng khoảng 4,4% so với cùng kỳ năm 2024 và giảm khoảng 9,2% so với TBTK. Riêng hồ Buôn Tua Srah, trong mùa cạn năm 2025 có sản lượng điện dự kiến là 154,8 triệu kWh với nhu cầu nước khoảng 1,3 tỷ m3, tăng khoảng 4,6% so với cùng kỳ năm ngoái và giảm khoảng 3,7 % so với TBTK.
Trên cơ sở kết quả dự báo xu thế diễn biến nguồn nước mặt, nguồn nước dưới đất, khí tượng, thủy văn trên lưu vực sông Srêpốk, nhu cầu sử dụng nước, yêu cầu về nguồn nước trên lưu vực phục vụ cấp nước sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp, thủy điện và các yêu cầu về bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng trong kỳ công bố kịch bản, về tổng thể nguồn nước các hồ chứa lớn, quan trọng, nguồn nước trên các tiểu vùng, tiểu lưu vực sông cơ bản ở Trạng thái bình thường, lượng nước có thể khai thác bảo đảm đủ cho các nhu cầu sinh hoạt, an sinh xã hội, các ngành kinh tế, bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, nguồn nước trên lưu vực trong kỳ công bố kịch bản vẫn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tình trạng thiếu nước nếu không khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả. Một số khu vực thuộc các huyện: Đắk Mil, Tuy Đức, Krông Nô, Đắk Glong, Cư Jút, Đắk Song của tỉnh Đắk Nông; các huyện Đức Cơ, Chư Sê, Chư Pưh, Chư Prông của tỉnh Gia Lai và các huyện, thị xã Buôn Hồ, Krông Ana, Krông Pắk, Krông Búk, Krông Bông, Krông Năng, Cư M'gar, Ea Súp, Ea H'Leo, M'Đrắk, Buôn Đôn của tỉnh Đắk Lắk vẫn có khả năng xảy ra thiếu nước cục bộ nguyên nhân chính là do thiếu các công trình khai thác nước, công trình, hệ thống công trình thủy lợi, nguồn nước dưới đất hạn chế, nắng nóng, thiếu hụt lượng mưa trong các tháng cuối mùa cạn.
Việc triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm ứng phó với nguy cơ thiếu nước cục bộ trên lưu vực sông được đẩy mạnh triển khai.
Để giảm thiểu nguy cơ có thể xảy ra thiếu nước, đặc biệt là ưu tiên bảo đảm cấp nước cho sinh hoạt trên lưu vực sông Srêpốk trong mọi tình huống, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị: Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, chỉ đạo việc chủ động lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước theo nhu cầu sử dụng nước bình thường của từng ngành, lĩnh vực và địa phương. Tuy nhiên, các kế hoạch sử dụng nước phải lập trên nguyên tắc tiết kiệm nước, tránh thất thoát, lãng phí, dự phòng nguy cơ xảy ra hạn hán, thiếu nước trong các tháng cuối mùa cạn.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức, chỉ đạo, đôc đốc các địa phương rà soát, nâng cao năng lực hệ thống các hồ chứa thủy lợi, điều chỉnh các quy trình vận hành công trình, hệ thống công trình thủy lợi bảo đảm sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, đa mục tiêu, và bảo đảm lưu thông của dòng chảy trong hệ thống công trình, không gây ứ đọng, ô nhiễm nguồn nước.
Chỉ đạo rà soát, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện nguồn nước của từng tiểu vùng trên lưu vực. Đặc biệt là các khu vực có nguồn nước dưới đất hạn chế, khu vực khó khăn để khai thác nguồn nước mặt (khu vực có địa hình có độ dốc lớn, bị chia cắt), khu vực thiếu các công trình tích trữ nước, hệ thống công trình thủy lợi chưa đáp ứng nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp.
Bộ Công Thương: Chỉ đạo Tập Đoàn điện lực Việt Nam, Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia xây dựng kế hoạch vận hành các hồ chứa thủy điện đáp ứng nhu cầu nước ở hạ du các hồ chứa trên cơ sở tuân thủ quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông. Đồng thời, rà soát, điều chỉnh kế hoạch huy động điện của các nhà máy thủy điện trên lưu vực sông bảo đảm phù hợp với điều kiện, khả năng của nguồn nước và bảo đảm nguồn nước cấp cho hạ du đến cuối mùa cạn năm 2025.
Bộ Xây dựng: phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh chỉ đạo, triển khai công tác bảo đảm cấp nước sinh hoạt cho người dân và cấp nước cho sản xuất ở đô thị, khu, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao.
UBND các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng: Rà soát, nâng cao năng lực hệ thống các hồ chứa thủy lợi, điều chỉnh các quy trình vận hành công trình, hệ thống công trình thủy lợi bảo đảm sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, đa mục tiêu và bảo đảm lưu thông của dòng chảy trong hệ thống công trình, không gây ứ đọng, ô nhiễm nguồn nước.
Xây dựng các công trình điều tiết, trữ nước trong quy hoạch về tài nguyên nước, quy hoạch thủy lợi và các quy hoạch khác có liên quan, ưu tiên các địa phương có nguy cơ xảy ra hạn hán, thiếu nước. Xây dựng, nâng cấp hệ thống dẫn nước từ các hồ chứa thủy lợi, đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn nước, tránh thất thoát, lãng phí; đối với các hồ chứa thủy lợi vừa và nhỏ chỉ điều tiết nước cho hoạt động tưới khi thực sự có nhu cầu.
Tại các khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước thuộc các huyện: Đắk Mil, Tuy Đức, Krông Nô, Đắk Glong, Cư Jút, Đắk Song của tỉnh Đắk Nông; các huyện Đức Cơ, Chư Sê, Chư Pưh, Chư Prông của tỉnh Gia Lai và các huyện, thị xã Buôn Hồ, Krông Ana, Krông Pắk, Krông Búk, Krông Bông, Krông Năng, Cư M'gar, Ea Súp, Ea H'Leo, M'Đrắk, Buôn Đôn của tỉnh Đắk Lắk, nghiên cứu, cần đầu tư, xây dựng hệ thống hồ chứa, đập dâng; cải tạo, nâng cấp hệ thống công trình thủy lợi; xây dựng, nâng cao năng lực cấp nước của các nhà máy cấp nước tập trung để đảm bảo cấp nước sinh hoạt cho người dân.
Rà soát, chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm giảm nhu cầu sử dụng nước tưới tại các khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước. Tăng cường giám sát chặt chẽ việc khai thác nước dưới đất, trong đó lưu ý việc khai thác nước dưới đất để tưới cho các cây công nghiệp; có giải pháp khai thác luân phiên nguồn nước mặt và nguồn nước dưới đất, tránh việc khai thác nước dưới đất quá mức gây suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.
Sớm hoàn thiện việc kiểm kê tài nguyên nước trong đó có nội dung kiểm kê các công trình khai thác nước dưới đất trên toàn bộ lưu vực sông; khẩn trương rà soát, phê duyệt kế hoạch bảo vệ nước dưới đất trong đó xác định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất đối với các khu vực, các tầng chứa nước. Tăng cường điều tra, tìm kiếm, đánh giá các khu vực, nguồn nước dưới đất có tiềm năng bổ cập và khai thác để bố trí, xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung; nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp tích trữ nước mưa, nước mặt, bổ sung nhân tạo nước dưới đất để phục vụ cấp nước trong mùa khô./.
Trần Hà
Bình luận