Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 02/08/2025 17:08
Thứ bảy, 02/08/2025 06:08
TMO - Thời gian qua, người dân và doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao nhằm gia tăng giá trị cho từng hécta đất rừng. Đây là hướng đi được tỉnh xác định rõ trong chiến lược phát triển lâm nghiệp hiện đại, mở ra nhiều cơ hội mới cho kinh tế lâm nghiệp địa phương.
Nhằm phát triển ngành lâm nghiệp hiệu quả và bền vững, tỉnh Tuyên Quang chú trọng ứng dụng công nghệ cao trong các của ngành lâm nghiệp. Các đơn vị, doanh nghiệp đã từng bước đưa vào sử dụng công nghệ cao trong quá trình sản xuất, chế biến lâm sản. Đặc biệt, mô hình trồng rừng gỗ lớn, gắn với chứng chỉ FSC, đang được khuyến khích mở rộng nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu và thu nhập cho người dân.
Việc chuyển đổi sang sản xuất lâm nghiệp theo hướng công nghệ cao giúp giảm chi phí lao động, tăng năng suất và chất lượng gỗ, đồng thời góp phần bảo vệ tài nguyên rừng. Theo Chi cục Kiểm lâm tỉnh, hiện toàn tỉnh có hơn 901.600 ha đất rừng, trong đó 620.800 ha rừng tự nhiên, 280.000 ha rừng trồng.
Đặc biệt, tỉnh đã có gần 90.000 lượt ha rừng trồng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC), đạt 92,3% kế hoạch đề ra cho giai đoạn 2021 - 2025. Tỷ lệ che phủ rừng của tỉnh hiện đạt gần 62%, đứng thứ 3 toàn quốc. Đáng chú ý, tại Trung tâm Thực nghiệm, thực hành & Chuyển giao khoa học công nghệ - Đại học Tân Trào đã tiếp nhận và làm chủ quy trình nuôi cấy mô giống keo lai (BV10, BV16, BV33) và bạch đàn, với công suất 1,5 - 1,6 triệu cây/năm.
Đơn vị ký hợp đồng chuyển giao công nghệ với Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, chuyển giao thành công 60 bình giống gốc và 2.000 cây đầu dòng, trung tâm đã cung cấp trên 1,5 triệu cây giống cho tỉnh và các tỉnh lân cận, trở thành nguồn đáng tin cậy cho nhiều dự án lâm nghiệp địa phương.
Theo chia sẻ của người dân xã Đông Thọ, với ưu điểm cây chắc, năng suất, chất lượng gỗ cao, giống keo lai nuôi cấy mô đang khẳng định được ưu điểm vượt trội. Từ ngày trồng keo cấy mô, 1 ha rừng của gia đình đã cho thu nhập tăng lên khoảng 50 triệu đồng/ha. Nếu trước trồng giống keo hạt, keo hom chỉ đạt khoảng từ 120 triệu đến 140 triệu đồng thì keo cấy mô đạt từ 170 triệu đồng đến 200 triệu đồng/ha cho một chu kỳ khai thác.
Dự án “Ứng dụng khoa học kỹ thuật bầu siêu nhẹ vào sản xuất cây giống lâm nghiệp chất lượng cao (keo lai mô)” tại tỉnh triển khai từ 11-2024 đến 10-2027, là bước cụ thể nhằm cơ giới hóa, hiện đại hóa ngành lâm nghiệp. Nguyên liệu làm bầu từ vỏ keo, mùn cưa, trấu, xơ dừa... giúp bầu nhẹ, thoáng khí, không cần bóc vỏ khi trồng, bảo vệ rễ, giảm ô nhiễm nhựa và nâng cao tỷ lệ sống, năng suất rừng trồng. Trong khi đó, bầu nilon truyền thống dễ làm rễ quấn vòng, ảnh hưởng đến cây sau trồng.
Tuyên Quang là 1 trong số những địa phương đầu tiên triển khai Hệ thống truy xuất nguồn gốc gỗ hợp pháp Việt Nam (iTwood). ( Ảnh: VAFS).
Đại diện phòng sử dụng và phát triển rừng, Chi cục Kiểm lâm tỉnh, chủ dự án cho biết: Bầu hữu cơ giúp giảm chi phí phân bón nhờ giá thể phân hủy sinh học, rút ngắn thời gian chăm sóc, dễ vận chuyển (200 - 400 cây/lần), tăng hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, bầu hữu cơ cũng có nhược điểm như dễ khô trong thời tiết nắng nóng. Dự án đã bổ sung than bùn để giữ ẩm, đồng thời điều chỉnh thiết bị nhập khẩu để tối ưu quy trình tạo bầu.
Cùng với công nghệ sinh học, việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý và giám sát rừng đang được tỉnh Tuyên Quang triển khai mạnh mẽ. Năm 2024, Bộ Nông nghiệp - Môi trường đã phê duyệt triển khai Hệ thống truy xuất nguồn gốc gỗ hợp pháp Việt Nam (iTwood).
Theo đó, thông tin về tọa độ vùng trồng được xác định chính xác bởi Hệ thống iTwood và Chi cục Kiểm lâm tỉnh Tuyên Quang chứng nhận. Việc này không chỉ giúp doanh nghiệp minh bạch hóa quy trình sản xuất, mà còn tạo điều kiện xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, EU.
Tính đến nay, tổng diện tích rừng trồng được các chủ rừng trong chương trình đăng ký quyền sử dụng đất để cấp mã lên tới 3.500 ha tại Tuyên Quang, trong đó 1.366 ha rừng trồng thuộc đơn vị doanh nghiệp và 958 ha rừng trồng trên địa bàn 5 xã trọng điểm về rừng của tỉnh.
Lãnh đạo Sở Nông nghiệp - Môi trường tỉnh Tuyên Quang cho biết: Việc cấp mã số vùng trồng rừng góp phần minh bạch hóa thông tin, thúc đẩy xuất khẩu gỗ và lâm sản, kết hợp với đề án xây dựng Tuyên Quang thành khu lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao, địa phương sẽ trở thành một cực phát triển lâm nghiệp ở phía Bắc. Nền tảng cho việc cấp mã số vùng trồng rừng là hệ thống iTwood, một công cụ hỗ trợ quản lý chuỗi cung gỗ theo thời gian thực.
Phát triển lâm nghiệp bền vững tạo sinh kế lâu dài cho người dân. (Ảnh: BDV).
Mỗi khâu trong quy trình tạo lập hồ sơ sẽ được cấp 1 QR Code, đảm bảo dòng chảy thông tin liên tục về tính hợp pháp của gỗ nguyên liệu từ khâu trồng rừng - khai thác - thương mại. Nhờ sử dụng mô hình điện toán đám mây, iTwood hỗ trợ người sử dụng truy xuất nguồn gốc gỗ nhanh chóng, việc cấp mã số vùng trồng rừng được tích hợp trên hệ thống iTwood được mở rộng, nhằm hỗ trợ một cách tốt nhất cho các chủ rừng, doanh nghiệp chế biến thương mại gỗ.
Ngoài ra, Tuyên Quang còn đang ứng dụng công nghệ GIS, viễn thám và AI giúp giám sát rừng tự động, giảm chi phí tuần tra, phát hiện nhanh các điểm nóng phá rừng hoặc cháy rừng. Các phần mềm quản lý còn được tích hợp để hỗ trợ cấp mã số vùng trồng, theo dõi tăng trưởng cây rừng, truy xuất nguồn gốc đến từng lô rừng cụ thể.
Nhằm đẩy mạnh chuyển đổi số, UBND tỉnh Tuyên quang ban hành Kế hoạch số 60/KH-UBND ngày 26/3/2025 về Kế hoạch chuyển đổi số năm 2025 trên địa bàn tỉnh. Trong đó, Kế hoạch nhấn mạnh tiếp tục ưu tiên phát triển kinh tế số ngành, lĩnh vực của tỉnh, như: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giao thông vận tải và Logistics, Tài chính – Ngân hàng, Du lịch;...Đặc biệt là xây dựng bản đồ số về vùng cây trồng để phục vụ việc quản lý thổ nhưỡng, đất đai và đáp ứng yêu cầu về truy suất nguồn gốc. Chủ động triển khai mạnh mẽ việc ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, nhất là ứng dụng công nghệ số, như: trí tuệ nhân tạo, quản trị dữ liệu, IoT, tự động hóa... vào hoạt động sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản, quản lý, bảo vệ rừng vv… giúp tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường và nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản…/.
Quốc Huy
Bình luận