Hotline: 0941068156
Thứ tư, 15/01/2025 21:01
Thứ bảy, 11/01/2025 05:01
TMO - Việc đẩy mạnh thực thi pháp luật và tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật về bảo tồn các loài chim hoang dã, di cư là nhiệm vụ quan trọng được Đảng và nhà nước, chú trọng thực hiện. Trong giai đoạn tiếp theo, nhằm bảo tồn các loài chim hoang dã, di cư, Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng tới xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về chim dư cư tại Việt Nam.
Lãnh đạo Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học cho biết, Việt Nam được đánh giá là một trong những khu vực quan trọng trong mạng lưới các tuyến đường bay của chim di cư và các loài chim đặc hữu, với 63 vùng chim quan trọng toàn cầu và 7 vùng chim đặc hữu. Các vùng chim hoang dã, di cư đã tạo nên các giá trị thiên nhiên quan trọng, góp phần bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển du lịch và xây dựng hình ảnh đất nước Việt Nam.
Tuy nhiên, tình trạng săn bắt, tiêu thụ các loài chim hoang dã vẫn đang diễn ra nghiêm trọng tại nhiều địa phương, ảnh hưởng tiêu cực đến đa dạng sinh học, môi trường, tiềm ẩn nguy cơ về dịch bệnh cho con người và sinh vật.
Với mục tiêu bảo tồn, tăng cường công tác quản lý, bảo vệ các loài chim hoang dã, di cư... Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng tới xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về chim dư cư tại Việt Nam. Bên cạnh đó, đang xây dựng Dự thảo Chương trình bảo vệ một số loài chim nước nguy cấp, quý, hiếm và Dự thảo Hướng dẫn kỹ thuật quản lý, bảo vệ các vùng chim nước di cư quan trọng, nhằm đảm bảo tính khả thi, hỗ trợ hiệu quả các địa phương, Ban quản lý các khu bảo tồn trong công tác bảo tồn, bảo vệ các loài chim hoang dã, di cư.
Từ đó tạo ra khuôn khổ hành động thuận lợi, khuyến khích sự tham gia tích cực của mọi tổ chức, cá nhân vào việc bảo vệ các loài chim nước nguy cấp, quý, hiếm; hướng tới thực hiện hiệu quả việc bảo tồn tại chỗ và bảo tồn chuyển chỗ, kết hợp với các phương pháp bảo tồn tiên tiến của quốc tế, đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam. Chương trình ưu tiên các hoạt động phục hồi môi trường sống cho chim nước, đặc biệt tại các vùng đất ngập nước trọng yếu như rừng ngập mặn, bãi bồi ven biển, đầm lầy nội địa.
Bên cạnh đó, Chương trình hướng tới việc tiếp tục hoàn thiện chính sách và pháp luật về bảo tồn các loài chim nước nguy cấp, quý, hiếm; tăng cường tổ chức và năng lực quản lý nhằm hỗ trợ hiệu quả việc kiểm soát, ngăn chặn và giảm thiểu các mối đe dọa, tác động tiêu cực đến quần thể và sinh cảnh của các loài chim nước; thiết lập và vận hành hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về các loài chim nước, chim di cư nguy cấp. Chương trình đặt mục tiêu huy động nguồn tài trợ quốc tế cho các dự án bảo tồn chim nước tại Việt Nam; xây dựng các mô hình sinh kế bền vững gắn với bảo tồn chim nước cho cộng đồng địa phương.
Việt Nam là một trong những khu vực quan trọng trong đường bay của chim di cư và các loài chim đặc hữu. (Ảnh minh hoạ: NV).
Đồng thời, ban hành các chính sách hỗ trợ bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên đất ngập nước; thành lập các nhóm bảo tồn tại địa phương để giám sát và bảo vệ các loài chim; giai đoạn 2025 - 2027, khởi động chương trình, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về chim nước, chim di cư. Đặc biệt, Dự thảo Chương trình bảo vệ một số loài chim nước nguy cấp, quý, hiếm đặt ra mục tiêu giảm ít nhất 50% số vụ săn bắt và buôn bán chim nước trái phép vào năm 2035; đến năm 2032, đảm bảo ít nhất 100 cá thể sếu đầu đỏ được gây nuôi bảo tồn thành công và tái thả về tự nhiên nhằm phục hồi quần thể…
Lãnh đạo Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học cho biết, nước ta đã ghi nhận hơn 900 loài chim; trong đó 99 loài cần quan tâm bảo tồn, 10 loài cực kỳ nguy cấp, 17 loài nguy cấp, 24 loài sắp nguy cấp và 48 loài sắp bị đe dọa. Tuy nhiên, có hai nguyên nhân lớn dẫn tới sự suy giảm nghiêm trọng của các loài chim hoang dã là tình trạng săn bắt trái phép và biến đổi khí hậu (đặc biệt là các hoạt động của con người như phát triển hạ tầng, du lịch không bền vững, nuôi trồng thủy sản không bền vững).
Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường cũng là một yếu tố làm suy giảm đáng kể sức khỏe và nguồn thức ăn của chim nước. Các hóa chất độc hại từ nông nghiệp, công nghiệp và nước thải sinh hoạt đã ảnh hưởng trực tiếp đến chim nước, dẫn đến nguy cơ tắc nghẽn tiêu hóa hoặc tử vong.
Đánh giá về thực trạng bảo vệ các loài chim di cư tại Việt Nam thời gian qua, Đại diện Viện Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, trong những năm gần đây, vấn đề bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên thiên nhiên đã trở thành một mối quan tâm lớn của toàn xã hội.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện các chính sách và pháp luật liên quan đến lĩnh vực này vẫn gặp không ít khó khăn và thách thức. Một trong những vấn đề cơ bản là sự mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật. Cụ thể, Luật Lâm nghiệp và Luật Đa dạng sinh học có một số điểm chồng chéo và thậm chí mâu thuẫn với nhau. Trong khi Luật Lâm nghiệp nhấn mạnh vào việc bảo vệ và phát triển rừng, thì Luật Đa dạng sinh học lại đặt trọng tâm vào bảo tồn các hệ sinh thái. Điều này dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong quá trình triển khai và thực thi các chính sách liên quan.
Cò nhạn (cò ốc) từng di cư về sông Đầm (xã Tam Thăng, TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam) để trú ngụ và tìm mồi. (Ảnh: N.Q)
Một vấn đề khác là cách tiếp cận quản lý tài nguyên thiên nhiên còn chưa đủ toàn diện. Một số chính sách và dự án đề ra chưa thực sự phù hợp với thực tế và nhu cầu của địa phương. Ví dụ, một số khu du lịch sinh thái được xây dựng nhưng chưa thực sự gắn kết với việc bảo vệ và phát triển bền vững các hệ sinh thái. Thay vào đó, họ chỉ tập trung vào việc khai thác tài nguyên để phục vụ du lịch, mà chưa chú trọng đủ đến việc tái đầu tư một phần lợi nhuận vào các hoạt động bảo tồn.
Bên cạnh đó, vấn đề thiếu nguồn lực, cả về tài chính và nhân lực, cũng là một trở ngại lớn. Nhiều địa phương thiếu kinh phí để triển khai các chương trình bảo vệ và phát triển tài nguyên thiên nhiên một cách hiệu quả. Việc huy động và sử dụng nguồn lực cũng chưa được quản lý một cách chặt chẽ và minh bạch.
Để khắc phục những hạn chế trên, theo Đại diện Viện Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, cần có sự điều chỉnh và đồng bộ hóa các quy định pháp luật liên quan. Đồng thời, cách tiếp cận quản lý tài nguyên thiên nhiên cần được cải thiện, với sự tham gia và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức và cộng đồng địa phương. Bên cạnh đó, việc đầu tư đủ nguồn lực và nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên thiên nhiên cũng là một yêu cầu cần thiết.
Những mối đe dọa cũng như hạn chế này không chỉ đẩy nhanh sự suy giảm quần thể chim nước mà còn ảnh hưởng đến hệ sinh thái cũng như sinh kế của các cộng đồng phụ thuộc vào đất ngập nước.
Trong nỗ lực bảo tồn các loài chim này, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quan trọng như: Luật Đa dạng sinh học năm 2008, Luật Lâm nghiệp năm 2017, Nghị định số 160/2013/NĐ-CP về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; Nghị định số 156/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp; Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 04/CT-TTg ngày 17/5/2022 về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để bảo tồn các loài chim hoang dã, di cư tại Việt Nam, tăng cường công tác quản lý, bảo vệ các loài chim nước hoang dã, di cư và đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý, bảo tồn tại Việt Nam.
Để góp phần bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển du lịch và xây dựng hình ảnh đất nước Việt Nam, thời gian qua, Đảng, Nhà nước và các ngành, các cấp đã ban hành nhiều văn bản quan trọng để thúc đẩy công tác bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ các loài chim hoang dã, di cư cũng như các vùng chim quan trọng.
Đình Nguyên
Bình luận