Hotline: 0941068156
Thứ ba, 11/03/2025 23:03
Thứ ba, 11/03/2025 06:03
TMO - Những năm qua, Việt Nam đã tăng cường công tác quản lý, vận hành, và khai thác hiệu quả các công trình thủy lợi nhằm đảm bảo an toàn hồ đập, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, sản xuất của Nhân dân.
Hệ thống thủy lợi Việt Nam có 290.000 trạm bơm lớn nhỏ khác nhau; 170.000 công trình kênh mương, với tổng chiều dài hàng triệu km; gần 7.500 hồ đập thủy lợi đã trở thành nền tảng để ngành nông nghiệp tái cơ cấu hợp lý, có đủ nước để có thể chủ động sản xuất… Bên cạnh đó, Việt Nam còn xây dựng được trên 900 hệ thống thủy lợi có quy mô diện tích phục vụ từ 200ha trở lên, trong đó 122 hệ thống thủy lợi vừa và lớn với diện tích phục vụ trên 2.000ha.
Trong suốt chặng đường vừa qua, ngành thủy lợi đã có nhiều đóng góp to lớn vào việc bảo vệ, cải tạo môi trường, góp phần quan trọng vào xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong năm 2024, ngành thủy lợi chủ động triển khai các biện pháp cấp bách ứng phó hiệu quả với nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn; điều hành, vận hành công trình thủy lợi hợp lý để phòng chống ngập lụt, úng và bảo đảm an toàn công trình thủy lợi, đập, hồ chứa nước do ảnh hưởng của mưa lũ, nhất là mưa lớn do ảnh hưởng của bão số 3 (Yagi) gây ra.
Năm 2024, ước diện tích lúa được tưới là hơn 6,7 triệu ha, trong đó vụ Đông Xuân 2,855 triệu ha, vụ mùa, Hè Thu 3,183 triệu ha và vụ Thu Đông 700 nghìn ha. Ðồng thời, việc phòng chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn vùng Ðồng bằng sông Cửu Long được thực hiện tốt đã bảo vệ hơn 1,5 triệu ha lúa và 180.000 ha cây ăn trái và bảo đảm cấp nước sinh hoạt cho nhân dân. Mặc dù có nhiều đóng góp cho sản xuất nông nghiệp nhưng hoạt động của các chi cục thủy lợi trong cả nước hiện nay gặp nhiều khó khăn do số biên chế công chức, viên chức ít so với chức năng, nhiệm vụ được giao; một số nơi lực lượng cán bộ, công nhân quản lý, vận hành còn thiếu và năng lực hạn chế.
Các công trình thủy lợi góp phần đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp của người dân. (Ảnh: TH).
Ngoài ra, các công trình thủy lợi chịu tác động rất lớn do thời tiết, thiên tai cho nên các hư hỏng đột xuất và những sự cố lớn như: Cháy động cơ, vỡ kênh, sụt sạt… xảy ra bất cứ lúc nào. Mặt khác, hầu hết công trình xây dựng cách đây 30 đến 40 năm đòi hỏi kinh phí lớn cho nâng cấp, sửa chữa, trong khi nguồn lực huy động từ tổ chức, cá nhân còn rất hạn chế; nhiều hệ thống thủy lợi chưa có quy trình vận hành được duyệt hoặc quy trình đã lạc hậu, gây khó khăn về cơ sở pháp lý cho vận hành các công trình.
Do điều kiện kinh phí hạn chế cho nên chưa có đủ khả năng kinh phí đầu tư cho sửa chữa, nâng cấp, nhất là các nội dung cần kinh phí lớn như: Lập quy trình vận hành, phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp, kiểm định an toàn, hệ thống đo đạc, quan trắc, khí tượng thủy văn tự động. Mặt khác, hiện nay chưa có cơ chế pháp lý đầy đủ cho việc thuê dịch vụ về dự báo, cảnh báo lũ, ngập lụt, úng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, dẫn đến khó khăn trong quá trình hỗ trợ ra quyết định vận hành.
Cùng với đó, biến đổi khí hậu làm mưa lũ ngày càng diễn biến cực đoan, khó lường, tần suất và cường độ mưa lũ tăng, gây áp lực lớn lên các công trình. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm nguồn nước, vi phạm trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi còn diễn biến phức tạp.
Ngoài ra, trên địa bàn cả nước đã phát hiện 62.299 vụ vi phạm phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi. Trong đó, các hành vi vi phạm gồm: Xây dựng nhà ở kiên cố, nhà tạm, nhà xưởng, kho tàng, lều lán, chuồng trại chăn thả gia súc, xây tường bao, xây dựng bến, bãi bốc dỡ hàng hóa; tập kết nguyên liệu, vật liệu, vật tư phương tiện; đào ao nuôi trồng thủy sản; khai thác vật liệu xây dựng trong phạm vi bảo vệ công trình còn tồn đọng nhiều, chưa xử lý dứt điểm. Thông tin từ Chi cục Hải Dương cho biết, trên địa bàn tỉnh hiện có 1.245 trạm bơm, 68 hồ chứa nước, 10.465 km kênh mương, 840 km bờ bao thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Nhưng cùng với sự phát triển của dân sinh, kinh tế-xã hội, tình trạng vi phạm đê điều và công trình thủy lợi trước đây diễn ra rất phức tạp, phổ biến. Các vi phạm như: Sản xuất kinh doanh, bến bãi, xây dựng công trình… tại bãi sông, kênh trục, hồ chứa, công trình thủy lợi nội đồng; xây tường rào, san lấp, lấn chiếm mặt bằng công trình.
Thời gian qua, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương, các sở, ngành liên quan và địa phương phối hợp, tăng cường quản lý xử lý vi phạm tồn đọng, mới phát sinh cho nên số lượng đã giảm còn 309 vụ. Ðể nâng cao năng lực hoạt động cho các chi cục thủy lợi, theo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, thời gian tới, các địa phương cần chú trọng công tác quản lý quy hoạch thủy lợi, đê điều và phòng chống thiên bảo đảm phù hợp quy hoạch của các ngành, lĩnh vực khác khác. Bên cạnh đó, cần thường xuyên theo dõi diễn biến thời tiết, nguồn nước; tổ chức kiểm tra, đánh giá hiện trạng công trình thủy lợi, đê điều, bờ bao.
Công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh: TCCT).
Xây dựng phương án cấp nước cho sản xuất, sinh hoạt, phòng chống thiên tai, bảo đảm an toàn và phát huy hiệu quả công trình; tăng cường công tác bảo vệ, bảo đảm an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng chống thiên tai. Mặt khác cần tiếp tục thống kê, phân loại các vi phạm phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi, trong đó làm rõ tính chất, mức độ, nguyên nhân, hướng xử lý và kiến nghị các cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định xử lý; đề xuất ưu tiên bố trí kinh phí để đầu tư, nâng cấp mở rộng công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung.
Bên cạnh đó thực hiện các giải pháp cấp nước cho các hộ dân không có khả năng tiếp cận công trình cấp nước tập trung, các hộ có nguy cơ ảnh hưởng thiếu nước sinh hoạt, đồng thời vận động, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân và các cơ quan, tổ chức trong bảo vệ môi trường, chất lượng nước ở các công trình thủy lợi; sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, làm tốt công tác quản lý việc xả thải và thu gom chất thải trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi.
Hệ thống thủy lợi, hệ thống điều chỉnh, điều hòa nguồn nước trong mạng lưới các hồ thủy lợi đã trở thành nền tảng để ngành nông nghiệp tái cơ cấu hợp lý, giúp ngành nông nghiệp Việt Nam có đủ nước để có thể chủ động sản xuất.
Hệ thống thủy lợi không chỉ đem nước đến cho người dân, mà còn là không gian sống của người dân; cảnh quan và kiến trúc nông thôn, niềm tự hào của nhân dân bản địa. Hạ tầng thủy lợi hướng đến phục vụ sản xuất cây, con giá trị kinh tế cao, nhất là thủy sản, cây ăn quả, cây đặc sản.
Do đó, cần quan tâm đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho phát triển thủy lợi và cấp nước sạch nông thôn ở những địa bàn khó khăn về nguồn nước như các tỉnh trung du miền núi, Tây Nguyên, Nam Trung bộ…; những dự án có thể mức đầu tư không lớn nhưng cực kỳ có ý nghĩa về mặt xã hội.
Phát huy kết quả đạt được, toàn Ngành nông nghiệp & Môi trường phấn đấu quản lý có hiệu quả đối với lĩnh vực thủy lợi, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường và sử dụng nguồn tài nguyên nước, thuỷ lợi hiệu quả, bền vững, góp phần phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng.
Thu Thuỷ
Bình luận