Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 23/11/2024 06:11
Thứ hai, 25/03/2024 14:03
TMO - Hiện Việt Nam đứng thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ. Để tiếp tục củng cố và nâng cao vị trí này, các sản phẩm gỗ xuất khẩu vào các thị trường trên thế giới đòi hỏi cần các chứng chỉ rừng bền vững.
Theo thống kê của Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) tổng diện tích rừng của cả nước là khoảng 14,74 triệu ha, trong đó có 4 triệu ha rừng sản xuất, cung cấp hơn 20 triệu m3 nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến gỗ…Theo các chuyên gia lâm nghiệp, để cung ứng bảo đảm nguồn nguyên liệu có chất lượng và gia tăng giá trị xuất khẩu hơn nữa, ngành lâm nghiệp và các địa phương phải tích cực đầu tư trồng rừng gỗ lớn.
Cùng với đó, cần đẩy mạnh phát triển vùng nguyên liệu gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững để phục vụ xuất khẩu. Đó là, hệ thống chứng chỉ rừng quốc gia (VFCS) của Văn phòng Chứng chỉ quản lý rừng bền vững và chứng chỉ FSC của Hội đồng Quản lý rừng quốc tế. Tính đến cuối năm 2023, tổng diện tích rừng của Việt Nam đã đạt cả hai loại chứng chỉ nêu trên là gần 500.000 ha, đạt hơn 90% mục tiêu đặt ra đến năm 2025.
Để cung ứng bảo đảm nguồn nguyên liệu có chất lượng và gia tăng giá trị xuất khẩu hơn nữa, ngành lâm nghiệp và các địa phương phải tích cực đầu tư trồng rừng gỗ lớn. Ảnh: BQN.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng. Trong đó, đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ tổ chức cấp chứng chỉ cho 1 triệu ha rừng trồng sản xuất, phòng hộ. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Kế hoạch “Phát triển rừng trồng sản xuất gỗ lớn giai đoạn 2024-2030”, đặt mục tiêu đến năm 2030, tổng diện tích rừng trồng sản xuất gỗ lớn đạt khoảng 1 triệu ha, trong đó duy trì diện tích rừng trồng gỗ lớn hiện có là 500 nghìn ha và phát triển mới giai đoạn 2024-2030 khoảng 450 nghìn đến 550 nghìn ha.
Theo kế hoạch, ngành lâm nghiệp và các địa phương sẽ nâng cao năng suất rừng trồng thâm canh cây keo, bạch đàn và các loài cây lâm nghiệp khác trung bình đạt 20m3/ha/năm vào năm 2025 và 22m3/ha/năm vào năm 2030; giá trị thu nhập từ rừng trồng sản xuất tăng bình quân khoảng 1,5-2 lần/đơn vị diện tích so với năm 2020; nâng cao chuỗi giá trị sản xuất lâm nghiệp. Cùng với đó, tập trung rà soát quỹ đất và rừng trồng kinh doanh gỗ nhỏ hiện có đủ điều kiện để trồng mới, trồng lại rừng sản xuất gỗ lớn.
Rà soát diện tích rừng trồng sản xuất hiện có theo loài cây, tuổi cây, loại đất để chuyển hóa từ rừng trồng sản xuất gỗ nhỏ sang rừng trồng kinh doanh gỗ lớn. Ngành lâm nghiệp cùng các địa phương hiện đang tập trung rà soát, đánh giá diện tích đất trống và rừng trồng sản xuất hiện có để xác định diện tích đất có điều kiện phù hợp để trồng mới, trồng lại rừng theo hướng thâm canh để kinh doanh gỗ lớn; rà soát, đánh giá diện tích rừng trồng sản xuất, kinh doanh gỗ nhỏ hiện có để xác định diện tích rừng có thể chuyển hóa để kinh doanh gỗ lớn; chăm sóc, nuôi dưỡng, trồng lại (sau khai thác) để duy trì 500.000 ha rừng trồng gỗ lớn hiện có; xây dựng vùng nguyên liệu gỗ gắn với các cơ sở chế biến để thực hiện chuyển hóa rừng trồng và trồng rừng thâm canh gỗ lớn.
Tuy nhiên, tại nhiều địa phương, việc giao quyền sử dụng rừng và đất rừng cho các chủ rừng còn chậm, ảnh hưởng lớn đến tiến trình cấp chứng chỉ rừng. Cùng với đó, nguồn kinh phí cung cấp cho các hoạt động duy trì chứng chỉ rừng cũng khó khăn, nhất là các tổ chức, cá nhân có diện tích cấp chứng chỉ là rừng tự nhiên không được khai thác.
Các địa phương đang gặp khó khăn trong công tác trồng rừng, nhất là trồng rừng gỗ lớn chất lượng cao do quỹ đất quy hoạch quy mô nhỏ, nhiều nơi manh mún, phân tán, không liền vùng. Trồng rừng gỗ lớn cần thời gian dài, trong khi người dân thiếu vốn hoặc muốn thu hồi tiền nhanh để phát triển kinh tế nên đây cũng là một trong những rào cản lớn. Trồng rừng gỗ lớn cũng gặp nhiều rủi ro như gió bão, thiên tai, gây thiệt tại cho nông dân, trong khi việc liên kết giữa các doanh nghiệp với người trồng rừng còn hạn chế, việc huy động tài chính đầu tư cho trồng rừng cũng gặp khó khăn do khó tiếp cận với nguồn tín dụng ưu đãi.
Để khắc phục khó khăn, các doanh nghiệp cần sớm xây dựng phương án phát triển hợp tác với người trồng rừng theo chuỗi giá trị sản phẩm trong lâm nghiệp; đẩy mạnh các mô hình liên kết giữa doanh nghiệp với người trồng rừng có chứng nhận quản lý rừng bền vững tại các địa phương. Phát triển kinh tế lâm nghiệp theo chuỗi, đồng bộ, từ trồng rừng, khai thác, chế biến đến tiêu thụ phù hợp quy mô, trình độ sản xuất và đặc điểm, lợi thế của từng ngành hàng, từng vùng; gắn với phát triển các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung. Ðây là những tiền đề quan trọng để thúc đẩy ngành sản xuất gỗ và các sản phẩm gỗ phát triển ổn định, bền vững đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế.
Để ngành công nghiệp gỗ mạnh, đủ sức cạnh tranh cần phải tập trung phát triển hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững và chất lượng cao. Phát huy tiềm năng, lợi thế đất đai, loài cây phù hợp với điều kiện sinh thái, hiện nhiều địa phương đã tập trung phát triển rừng trồng sản xuất gỗ lớn, nâng cao năng suất, chất lượng rừng gắn với quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng; cung cấp nguyên liệu hợp pháp có chất lượng cho chế biến, tăng thu nhập cho người trồng rừng.
Các địa phương cần phát triển hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững và chất lượng cao.
Quảng Trị là tỉnh đầu tiên ở Việt Nam được cấp chứng nhận quốc tế FSC đối với rừng tự nhiên. Theo đó, 2.145ha rừng tự nhiên của 5 thôn tại các xã: Hướng Phùng, Hướng Sơn, Hướng Việt, Hướng Linh của huyện Hướng Hóa được cấp chứng nhận quốc tế FSC dịch vụ hệ sinh thái về lưu trữ và hấp thụ carbon vào tháng 10/2022 với trữ lượng lưu trữ tại các diện tích rừng này khoảng 350.000 tấn CO2 và lượng hấp thụ hàng năm khoảng 7.000 tấn CO2
Với diện tích rừng trồng gỗ keo và rừng tự nhiên được cấp chứng nhận quản lý bền vững FSC nói trên đã tạo điều kiện cho hơn 3.700 nông dân thuộc các cộng đồng miền núi, nhóm hộ, hợp tác xã tham gia cung ứng cho thị trường nguyên liệu có chứng nhận FSC gồm gỗ keo và các lâm sản ngoài gỗ như tre nguyên liệu, hạt trẩu, bồ kết và măng khô. Lâm sản ngoài gỗ là khoảng 30.000 tấn tre nguyên liệu có chứng nhận FSC nằm trong diện tích rừng ở trên giúp Quảng Trị có cơ hội tạo vùng nguyên liệu để sản xuất khoảng 10.000 tấn than tre sinh học/năm, tạo ra giá trị thương mại lớn cho nông dân, đóng góp hấp thụ lâu dài 20.000 tấn Co2 hằng năm dưới hình thức than sinh học.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đề ra mục tiêu: xây dựng Quảng Trị trở thành trung tâm cung cấp gỗ nguyên liệu và chế biến gỗ từ rừng trồng của khu vực miền Trung. Để thực hiện mục tiêu này, giai đoạn 2022 -2025 tỉnh xây dựng vùng nguyên liệu rừng trồng gỗ lớn có chứng chỉ FSC trên địa bàn 5 huyện gồm: Hải Lăng, Cam Lộ, Triệu Phong, Gio Linh và Vĩnh Linh với khoảng 5.000 ha. Qua đó nâng diện tích rừng loại này lên khoảng 28.000 ha, đến năm 2030 phấn đấu đạt 30.000 ha. Để phát triển rừng trồng nguyên liệu gỗ lớn cần có thêm chính sách, hoạt động hỗ trợ, tạo động lực để nhiều hộ dân tham gia.
Với mục tiêu hình thành vùng kinh doanh rừng gỗ lớn có năng suất, chất lượng cao nhằm nâng cao giá trị sản xuất, kinh doanh rừng trồng, gắn kết theo chuỗi từ trồng rừng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, tỉnh Quảng Trị đã xây dựng Đề án Phát triển rừng trồng kinh doanh gỗ lớn tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2019-2025, định hướng đến năm 2030.
Thúy Hằng
Bình luận