Hotline: 0941068156

Thứ hai, 22/12/2025 17:12

Tin nóng

Quy định về đất đai và môi trường trong Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam

Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến thuế, phí bảo vệ môi trường

Khởi công siêu dự án trục đại lộ cảnh quan sông Hồng

Khởi công, khánh thành những dự án lớn phục vụ nhu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

UBND đặc khu quyết định biện pháp quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường

Phòng chống IUU: Kiên quyết không cho xuất bến với tàu không đủ điều kiện

Chợ tự phát gây mất mỹ quan đô thị, không bảo đảm an toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường

LNG - "mảnh ghép" quan trọng trong củng cố và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia

Quần thể chè Shan tuyết cổ thụ ở Thái Nguyên được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Trách nhiệm của địa phương trong phong trào toàn dân tham gia bảo vệ môi trường

Quốc hội thông qua Nghị quyết cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia

Luật sửa đổi, bổ sung 15 luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường được Quốc hội thông qua

Phát huy giá trị, bảo vệ cảnh quan môi trường khu Di tích quốc gia Đền Cửa Ông

Nhiều cá nhân, tập thể được Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam tặng Bằng khen

Cả nước trồng hơn 1,4 tỷ cây xanh giai đoạn 2021-2025

Kinh tế-xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2025 tiếp tục xu hướng tích cực

Không để thiếu vật tư, vật liệu làm lại nhà cho người dân bị thiệt hại bởi thiên tai

Toàn dân tham gia bảo vệ môi trường – Vì một Việt Nam sáng – xanh - sạch - đẹp

Hà Nội yêu cầu 100% công trình xây dựng phải có biện pháp, không để phát tán bụi

Dự thảo quy định lộ trình áp dụng quy chuẩn kỹ thuật về khí thải xe mô tô, gắn máy

Thứ hai, 22/12/2025

Khẩn trương xây dựng quy chế điều phối về phát triển bền vững kinh tế biển

Chủ nhật, 08/06/2025 07:06

TMO - Ủy ban chỉ đạo quốc gia cần tập trung vào các vấn đề liên ngành, liên vùng, giải quyết các vấn đề xung đột phát triển, đa ngành, đa lĩnh vực tại một vùng biển, những vấn đề cần sự phối hợp với quốc tế (như vấn đề về khai thác, quản lý tổng hợp vùng bờ, về biến đổi khí hậu, về rác thải nhựa đại dương…).

Văn phòng Chính phủ vừa phát Thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp về Cơ chế điều phối liên ngành về phát triển bền vững kinh tế biển.

Nội dung kết luận nêu, nhận thức rõ vị trí, vai trò của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chiến lược, cơ chế, chính sách để phát triển bền vững kinh tế biển, khai thác, sử dụng bền vững, hiệu quả tài nguyên, môi trường biển. Với đặc thù của không gian biển, nơi diễn ra nhiều hoạt động kinh tế chồng lấn và bối cảnh nhiều quy hoạch liên quan đến không gian và tài nguyên biển đã được phê duyệt thì yêu cầu về một cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan ngày càng trở nên cấp thiết trong quá trình triển khai Nghị quyết của Trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Để phát huy hiệu quả của cơ chế điều phối trong quản lý, khai thác tổng hợp tài nguyên, giải quyết các xung đột và lựa chọn phương án tối ưu giữa các lĩnh vực phát triển trên biển phù hợp với Chiến lược và các quy hoạch đã được phê duyệt, Phó Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành tập trung rà soát chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc của Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để xác định rõ phạm vi, tính chất, các công việc thuộc thẩm quyền giải quyết, xử lý của Ủy ban chỉ đạo quốc gia để tách bạch giữa chức năng điều phối và thẩm quyền quản lý theo quy định của pháp luật phù hợp chức năng nhiệm vụ được giao của các Bộ, ngành, cơ quan; nghiên cứu thành lập tổ chức phối hợp liên ngành tương tự cấp Trung ương tại các địa phương nhằm giải quyết hiệu quả các vấn đề liên lĩnh vực, liên xã.

(Ảnh minh họa)

Phó Thủ tướng Chính phủ đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng, hoàn thiện quy chế điều phối của Ủy ban chỉ đạo quốc gia dựa trên căn cứ khoa học, pháp lý và trên nguyên tắc: Ủy ban chỉ đạo quốc gia tập trung vào các vấn đề liên ngành, liên vùng, giải quyết các vấn đề xung đột phát triển, đa ngành, đa lĩnh vực tại một vùng biển (xung đột giữa các hoạt dộng kinh tế hàng hải, điện gió, thủy sản, du lịch, dầu khí...), những vấn đề cần sự phối hợp với quốc tế (như vấn đề về khai thác, quản lý tổng hợp vùng bờ, về biến đổi khí hậu, về rác thải nhựa đại dương,...); Phân cấp, phân quyền phù hợp với thẩm quyền của Trung ương và địa phương; Các nhiệm vụ cụ thể thuộc trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước.

Hoạt động điều phối cần dựa trên cơ sở dữ liệu thống nhất, tập trung, chia sẻ thông tin, bộ công cụ phân tích - đánh giá, hỗ trợ lựa chọn phương án phát triển phù hợp, đặc biệt ở khu vực tiềm năng cao dựa trên ứng dụng dữ liệu lớn và AI.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần phát huy vai trò của cơ quan thường trực của Ủy ban chỉ đạo quốc gia trong tham mưu, điều phối, tổng hợp, đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp liên ngành về phát triển kinh tế biển, trong đó tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm như: tăng cường công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; xây dựng, cập nhật và chuẩn hóa dữ liệu, thống nhất quản lý sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quốc gia; phối hợp với Bộ Tài chính để ưu tiên bố trí đủ kinh phí để thực hiện hiệu quả các đề án, dự án, nhiệm vụ đã được giao, các dự án thuộc Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo...

Phó Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghiên cứu, tham mưu Thủ tướng Chính phủ có văn bản chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương liên quan đẩy mạnh triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách đã được giao tại các Nghị quyết, Kế hoạch, Quy hoạch liên quan, trong đó có tăng cường công tác phối hợp trong triển khai thực hiện; nội dung tham mưu cần cụ thể để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định ngay trong tháng 6/2025.

Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được ban hành ngày 22/10/2018 tại Nghị quyết 36-NQ/TW. Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2030: Các chỉ tiêu về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ theo chuẩn mực quốc tế đạt mức thuộc nhóm nước trung bình cao trở lên trên thế giới. Hầu hết các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến biển, đảo được thực hiện theo nguyên tắc quản lý tổng hợp phù hợp với hệ sinh thái biển.

Các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển.

Chỉ số phát triển con người (HDI) của các tỉnh, thành phố ven biển cao hơn mức trung bình của cả nước; thu nhập bình quân đầu người của các tỉnh, thành phố ven biển gấp từ 1,2 lần trở lên so với thu nhập bình quân của cả nước. Các đảo có người dân sinh sống có hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đầy đủ, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục...

Về khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển: Tiếp cận, tận dụng tối đa thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến và thuộc nhóm nước dẫn đầu trong ASEAN, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ biển đạt trình độ tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển, hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ biển có năng lực, trình độ cao.

Về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng: Đánh giá được tiềm năng, giá trị các tài nguyên biển quan trọng. Tối thiểu 50% diện tích vùng biển Việt Nam được điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển ở tỉ lệ bản đồ 1: 500.000 và điều tra tỉ lệ lớn ở một số vùng trọng điểm. Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số hoá về biển, đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật.

Ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển; tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương. Ở các tỉnh, thành phố ven biển, 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn môi trường; 100% khu kinh tế, khu công nghiệp và khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững, sinh thái, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đáp ứng các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường.

Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000.

Năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, động đất, sóng thần, quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bao gồm cả thông qua việc ứng dụng công nghệ vũ trụ và trí tuệ nhân tạo, đạt trình độ ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực. Có biện pháp phòng, tránh, ngăn chặn, hạn chế tác động của triều cường, xâm nhập mặn, xói lở bờ biển.

Đến năm 2045, Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương…/.

 

 

THIÊN LÝ

 

 

 

 

 

 

Thích và chia sẻ bài viết:

Bình luận

    Bình luận của bạn

    cmt
      Web đang chạy kỹ thuật
      Zalo phone Hotline