Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 24/11/2024 06:11
Thứ hai, 14/03/2022 12:03
TMO – Là khu vực chiếm khoảng 12% diện tích và khoảng 19% dân số cả nước, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang phải đối mặt với tình trạng sạt lở, sụt lún nghiêm trọng từ các hoạt động khai thái tài nguyên không hợp lý, cụ thể là nước ngầm và cát.
Nhiều năm nay, khu vực ÐBSCL đang chịu sức nén lớn từ các hoạt động khai thác tài nguyên dẫn đến sạt lở, sụt lún. Các chuyên gia đánh giá, sạt lở trên hệ thống các sông ở ÐBSCL diễn biến hết sức phức tạp cả về phạm vi lẫn mức độ ảnh hưởng. Điển hình, tại Cần Thơ trong giai đoạn 2010-2020, trên địa bàn Cần Thơ có gần 230 điểm sạt lở với chiều dài 9km. Riêng năm 2021 xảy ra 23 điểm sạt lở, gây nhiều thiệt hại, ảnh hưởng đến đời sống và kinh tế của người dân tại địa phương.
Thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến cuối năm 2021, khu vực ÐBSCL có trên 620 điểm sạt lở với tổng chiều dài 610km. Trong đó, sạt lở đặc biệt nguy hiểm có 147 điểm với chiều dài 127km; sạt lở nguy hiểm có 137 điểm với tổng chiều dài 193km; còn lại là các điểm sạt lở bình thường. Trong đó, các tỉnh như Cà Mau, An Giang, Tiền Giang… là những địa phương có nhiều điểm sạt lở nhất. Trong đó, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ là những địa phương có nhiều điểm sạt lở nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
Tình trạng sạt lở, sụt lún đang diễn ra phức tạp tại các địa phương khu vực ĐBSCL.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sạt lở ở khu vực ÐBSCL có nhiều nguyên nhân, trong đó, có những nguyên nhân chính như: yếu tố dòng chảy gây sạt lở, nhất là ở khu vực đoạn sông cong; yếu tố địa chất của khu vực bờ sông yếu, khả năng chống xói lở kém; việc xây dựng các công trình, hồ đập ở thượng lưu sông Mekong dẫn đến giảm sút lượng bùn cát về ÐBSCL; vấn đề phát triển hạ tầng ven sông; khu vực sông ngòi chằng chịt nên phương tiện giao thông thuỷ di chuyển cũng là yếu tố gây sạt lở bờ sông. Ðặc biệt, việc khai thác cát dẫn đến hạ thấp đáy sông, làm thay đổi dòng chảy dẫn đến tăng nguy cơ sạt lở bờ sông.
Theo một nghiên cứu gần đây cho thấy tổng lượng cát bị khai thác ở lưu vực sông Mekong khoảng 50 triệu tấn/năm, trong đó, Campuchia khai thác 30 triệu tấn/năm; Việt Nam 12,4 triệu tấn/năm; Thái Lan 6 triệu tấn/năm; Lào 1,5 triệu tấn/năm. Riêng tại Việt Nam, qua các tài liệu thu thập, lượng khai thác cát được cấp phép hằng năm ở các tỉnh ÐBSCL là 15 triệu m3/năm. Tuy nhiên, số liệu có thể lớn hơn nhiều so với các tài liệu công bố, có thể lên cao gấp đôi con số mà nhóm nghiên cứu công bố. Trong khi lượng cát bị lấy đi lớn, nhưng lượng phù sa, bùn cát từ thượng nguồn về ÐBSCL sụt giảm càng khiến tình trạng sụt lún, sạt lở xảy ra ngày càng nghiêm trọng hơn.
Các tác động dẫn đến xói lở kênh rạch từ việc giảm lượng phù sa hay khai thác cát phục vụ phát triển hạ tầng sẽ tiếp tục trong thời gian tới, cho nên, tình trạng sạt lở, sụt lún bờ sông sẽ tiếp tục diễn ra cả về mặt cường độ lẫn phạm vi. Ðể hạn chế tình trạng sạt lở bờ sông, các chuyên gia cho rằng vùng ÐBSCL cần có phương án quy hoạch chỉnh trị tổng thể hệ thống sông rạch lớn, đảm bảo vừa chống được sạt lở, vừa đảm bảo được sự phát triển bền vững.
Ðối với các công trình kiên cố phòng chống sạt lở cần đầu tư tập trung ở những khu vực trọng điểm, nhất là khu vực đông dân cư, khu vực cơ sở hạ tầng và khu vực những công trình lớn ảnh hưởng đến lòng sông… Bên cạnh đó cũng có những ý kiến của một số chuyên gia cho rằng trong bối cảnh lượng bùn cát từ thượng nguồn về vùng ÐBSCL ngày càng hạn chế, thì cần thiết phải tìm vật liệu khác để thay thế trong phục vụ phát triển kinh tế, tránh khai thác cát quá mức như hiện nay.
Theo các chuyên gia, việc khai thác tài nguyên cát, nước ngầm là một yếu tố góp phần gây sụt lún, sạt lở đất, song cho dù có ngừng khai thác cát, nước ngầm hoàn toàn thì cũng không thể ngăn chặn được hiện tượng này. Tuy nhiên, tốc độ sụt lún, sạt lở có thể nhờ đó mà được giảm thiểu. Nhiều chuyên gia đề xuất để góp phần hạn chế tốc độ sụt lún, sạt lở, các địa phương vùng ÐBSCL cần ứng dụng các giải pháp cơ sở hạ tầng xanh nhằm làm mới lại các khu vực công cộng trong trung tâm đô thị để tăng không gian cho tích trữ nước, thẩm thấu nước mưa tại các khu vực phát triển đô thị và các công trình cơ sở hạ tầng công cộng mới, nhằm giải phóng áp lực cho hệ thống nước ngầm.
Ðặc biệt, cơ sở hạ tầng xanh sẽ bồi đắp lại lượng nước ngầm thiếu hụt, góp phần hạn chế sụt lún đất trong thời gian tới. Nhiều chuyên gia, nhà khoa học cũng cho rằng các yếu tố góp phần gây sụt lún, sạt lở đất như khai thác nước ngầm, khai thác cát từ sông… cần được cơ quan chức năng, những người có thẩm quyền ra quyết định hạn chế hoặc ngưng thực hiện để giảm thiểu sụt lún, sạt lở đất; xác định các giải pháp thích ứng và sống chung với sụt lún đất, hạn chế sạt lở bờ sông.
Phương Điền
Bình luận