Hotline: 0941068156
Thứ sáu, 22/11/2024 21:11
Thứ hai, 17/06/2024 07:06
TMO - Suy thoái đất, sa mạc hóa là vấn đề có quy mô toàn cầu, cần sự chung tay của tất cả các quốc gia. Nhận thức rõ vấn đề này Việt Nam đang đẩy mạnh triển khai các giải pháp quản lý sử dụng đất, phục hồi và nâng cao chất lượng đất.
Theo Công ước chống sa mạc hóa của Liên hợp quốc, hạn hán làm suy thoái đất trong các khu vực khô hạn, bán khô hạn và vùng ẩm nửa khô hạn. Trong những năm gần đây, hạn hán xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng hơn. Hạn hán bắt nguồn từ biến đổi khí hậu có nguy cơ làm trầm trọng thêm hiện tượng sa mạc hóa. Tần suất và thời gian hạn hán đã tăng 29% kể từ năm 2000. Nếu không có hành động khẩn cấp, hạn hán có thể ảnh hưởng đến hơn 3/4 dân số thế giới vào năm 2050.
Cộng đồng quốc tế đánh giá hạn hán và sa mạc hóa là vấn đề rộng, liên quan tới cả 3 lĩnh vực: kinh tế, xã hội và môi trường của nhiều quốc gia trên thế giới. Hạn hán và sa mạc hóa được xem là thảm họa của thiên nhiên, gây ra nhiều tác động tiêu cực tới đời sống con người. Tổ chức Y tế thế giới cũng đưa ra cảnh báo, hạn hán đang gây ảnh hưởng đến gần 56 triệu người trên toàn cầu, 40% dân số bị khan hiếm nước, khoảng 700 triệu người có nguy cơ phải di cư vào năm 2030 do hạn hán.
Hạn hán là mối nguy hại nghiêm trọng với gia súc và cây trồng; là một trong những nguyên nhân gây ra 80 - 90% các thảm họa thiên nhiên được ghi nhận trong 10 năm qua. Sa mạc hóa là giai đoạn cuối của suy thoái đất. Gần 3/4 diện tích đất không có băng của hành tinh đã bị suy thoái do các hoạt động của con người để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về thực phẩm, nguyên liệu thô, giao thông và nhà ở.
Tình trạng suy thoái, suy giảm chất lượng đất đòi hỏi Việt Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp.
Tại Việt Nam, những biểu hiện rõ nét nhất của biến đổi khí hậu như nhiệt độ trung bình tăng, nước biển dâng, xâm thực mặn, khô hạn, bão lũ, sạt lở,… đã làm thay đổi đáng kể diện tích, hình thức sử dụng đất cũng như định hướng quản lý đất đai trên nhiều khu vực, tỉnh thành cả nước. Một trong những nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu xuất phát từ các hoạt động khai thác của con người, đặc biệt trong kỷ nguyên công nghiệp, nhằm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Cụ thể, việc sử dụng các nguyên liệu hoá thạch (than đá, dầu mỏ, khí đốt) đã chiếm hơn 75% lượng khí phát thải nhà kính toàn cầu và gần 90% tổng lượng khí thải CO2, qua các hoạt động: Chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nước; hoạt động phát triển kinh tế bao gồm: Chặt phá rừng, sản xuất hàng hoá, công nghiệp, phát điện, sử dụng phương tiện đi lại, cung cấp năng lượng cho các toà nhà,…
Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tác động của biến đổi khí hậu đã khiến lượng mưa thay đổi bất thường, nước biển dâng cao với tốc độ nhanh hơn khoảng 6mm/ năm, điều này khiến 11.838 nghìn ha đất bị thoái hóa (chiếm 35,74% diện tích tự nhiên trên cả nước), với các loại hình thoái hoá đất như bị suy giảm độ phì, xói mòn, khô hạn, hoang mạc, sa mạc hoá; đất bị kết von, phèn hoá, mặn hoá,… đang xảy ra trên khắp Việt Nam. Việt Nam xuất hiện hiện tượng sa mạc hóa cục bộ ở các dải cát hẹp trải dài dọc theo bờ biển miền Trung, từ Quảng Bình đến Bình Thuận là nơi có diện tích sa mạc hóa lớn nhất cả nước với khoảng 419.000ha.
Công ước chống sa mạc hóa của Liên hợp quốc được thành lập từ năm 1994, hiện có 197 thành viên. Việt Nam gia nhập Công ước này từ năm 1998. Mục tiêu của Công ước là chống sa mạc hóa, suy thoái đất và giảm thiểu tác hại của hạn hán ở các vùng bị sa mạc hóa và suy thoái đất nghiêm trọng; áp dụng các biện pháp có hiệu quả và sự trợ giúp quốc tế để giúp các nước bị ảnh hưởng bởi thoái hóa, sa mạc và hạn hán phát triển bền vững.
Để thực hiện trách nhiệm thành viên và yêu cầu của Công ước chống sa mạc hóa của Liên hợp quốc, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động quốc gia phòng, chống sa mạc hóa giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020. Chương trình đã thực hiện được một số nội dung: hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo vệ tài nguyên đất, tài nguyên rừng và tài nguyên nước để phòng, chống sa mạc hóa; nâng cao nhận thức, đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở nghiên cứu phục vụ công tác phòng, chống sa mạc hóa; điều tra, đánh giá thực trạng sa mạc hóa và nghiên cứu xác định nguyên nhân chủ yếu gây sa mạc hóa, đề xuất giải pháp phòng, chống sa mạc hóa tại Việt Nam…
Cục Lâm nghiệp (trước đây là Tổng Cục Lâm nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã xây dựng Kế hoạch Khô hạn quốc gia; Điều chỉnh, cập nhật Chương trình hành động quốc gia về phòng chống sa mạc hóa giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn 2030 và Đề án xác định mục tiêu tự nguyện cân bằng suy thoái đất quốc gia giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn 2030.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm đang được đẩy mạnh thực hiện là nâng cao chất lượng rừng trồng, hướng tới mục tiêu quản lý đất bền vững, khắc phục tình trạng suy thoái.
Việt Nam đã thực hiện thành công Chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc (Chương trình 327), Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (Dự án 661) với mục tiêu là tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được hưởng lợi từ rừng, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội và môi trường. Tiếp nối những kết quả đã đạt được, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt Đề án trồng 1 tỷ cây xanh giai đoạn 2021 - 2025 với mục tiêu huy động các lực lượng trồng, chăm sóc và bảo vệ gần 700 triệu cây xanh phân tán ở đô thị và nông thôn, cùng hơn 300 triệu cây rừng trồng tập trung. Triển khai dự án, đến nay, cả nước đã trồng được gần 770 triệu cây xanh, đạt 121% so với kế hoạch.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 993/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch quốc gia triển khai Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất đến năm 2030. Tuyên bố Glasgow của các nhà Lãnh đạo về rừng và sử dụng đất nhằm mục đích ngăn chặn, đảo ngược tình trạng mất rừng, suy thoái đất vào năm 2030; góp phần đạt mục tiêu giữ cho nhiệt độ toàn cầu tăng ở mức 1,5 độ C đồng thời hỗ trợ phát triển bền vững, chuyển đổi công bằng ở khu vực nông thôn thông qua các hành động cụ thể. Nội dung chính của Tuyên bố tập trung vào vai trò và mối tương quan giữa rừng, đa dạng sinh học, sử dụng đất bền vững, góp phần đạt được sự cân bằng giữa phát thải khí nhà kính do con người gây ra và hấp thụ khí nhà kính tự nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững.
Để thể hiện quyết tâm, cam kết chính trị của Việt Nam trong việc giải quyết những thách thức nghiêm trọng của toàn cầu về chống biến đổi khí hậu và suy giảm các hệ sinh thái, hướng đến mục tiêu một hành tinh khỏe mạnh, Việt Nam đã ban hành Kế hoạch quốc gia triển khai Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất đến năm 2030. Kế hoạch đưa ra mục tiêu cụ thể, đến năm 2025, quản lý chặt chẽ diện tích rừng tự nhiên hiện có, hạn chế tối đa chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác, từng bước hạn chế tình trạng suy thoái rừng và suy thoái đất.
Đến năm 2030, cơ bản đẩy lùi tình trạng mất rừng, suy thoái tài nguyên rừng, suy thoái đất và sa mạc hóa, bảo đảm hài hòa phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn; đóng góp hiệu quả vào việc thực hiện cam kết giảm phát thải khí nhà kính do quốc gia tự quyết định (NDC).
Đồng thời, phấn đấu diện tích rừng tự nhiên nghèo được phục hồi và nâng cấp chất lượng đạt 10% vào năm 2025, đạt 20% vào năm 2030, góp phần giảm tỷ lệ diện tích rừng tự nhiên nghèo, tăng tỷ lệ diện tích rừng tự nhiên trung bình và giàu; nâng cao hiệu quả bảo tồn đa dạng sinh học và năng lực phòng hộ; nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế và tính bền vững của rừng trồng và cây trồng nông nghiệp; diện tích rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững đạt 0,5 triệu ha vào năm 2025, đạt 1,0 triệu ha vào năm 2030.
Cùng với đó, hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm nông, lâm nghiệp bền vững không gây mất rừng, suy thoái đất và sa mạc hóa; nâng cao tính chống chịu, giảm thiểu tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp theo hướng đa mục đích, phát thải thấp, kinh tế tuần hoàn và kinh tế xanh.
Để đạt được mục tiêu trên, Kế hoạch đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm như: Bảo tồn và đẩy nhanh quá trình phục hồi rừng, các hệ sinh thái trên cạn; xây dựng và hoàn thiện chính sách thương mại trong nước và quốc tế, thúc đẩy phát triển sản xuất và tiêu dùng hàng hóa bền vững để đạt được lợi ích chung, không làm mất rừng và suy thoái đất. Đồng thời, thực hiện giải pháp giảm thiểu tình trạng dễ bị tổn thương của rừng và đất; tăng cường khả năng phục hồi và cải thiện sinh kế nông thôn thông qua trao quyền cho cộng đồng, củng cố hệ thống quản lý đất, phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao giá trị đa mục đích của rừng; đảm bảo các quyền của người dân và các cộng đồng địa phương theo quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Quang Hùng
Bình luận