Hotline: 0941068156
Thứ sáu, 22/11/2024 08:11
Thứ tư, 31/07/2024 07:07
TMO - Thời gian qua, Việt Nam bảo tồn, lưu giữ hơn 80.000 nguồn gene đặc hữu, quý hiếm. Đây là nguồn vật liệu vô cùng quý, phục vụ cho công tác chọn tạo, lai tạo các giống mới có năng suất, chất lượng tốt hơn, giá trị cao hơn.
Thông tin từ Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), thời gian qua, Bộ KH&CN cùng với các bộ, ngành, địa phương đã chủ động, tích cực tham gia vào công tác xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp lý và triển khai công tác bảo tồn, lưu giữ, khai thác và phát triển nguồn gene. Thông qua Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gene giai đoạn 2015 - 2024 và định hướng triển khai giai đoạn 2025 -2030, Việt Nam đã bảo tồn, lưu giữ được hơn 80.911 nguồn gene đặc hữu, quý, hiếm, trong đó có 47.772 nguồn gene thực vật nông nghiệp, 5.768 nguồn gene cây lâm nghiệp, 7.039 nguồn gene dược liệu, 891 nguồn gene vật nuôi, 391 nguồn gene thủy sản, 19.050 nguồn gene vi sinh vật.
Điển hình, Trung tâm Tài nguyên thực vật (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) đã điều tra thu thập được trên 10.000 nguồn gene thuộc các nhóm cây trồng. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam và các trường đại học có khoa lâm nghiệp thời gian qua đã thu thập bảo tồn gần 2.000 nguồn gene thuộc 70 loài cây lâm nghiệp, trong đó có các nguồn gene của nhiều loài quý hiếm với 100% nguồn gene bản địa về trồng ở một số địa phương như: Sơn La, Lào Cai, Ba Vì, Phú Thọ, Lâm Đồng, Đắk Nông, Bình Thuận… Đặc biệt, trong những năm gần đây, số lượng nguồn gene có giá trị làm thuốc đã được phát hiện và thu thập, bảo tồn khoảng trên 7.000 nguồn gene.
Bên cạnh đó, đã khai thác sử dụng hiệu quả, phát triển nhiều nguồn gene quý hiếm có giá trị kinh tế thuộc lĩnh vực lâm nghiệp, dược liệu, vật nuôi, thủy sản, vi sinh vật... Các nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gene đã được triển khai với trên 300 nguồn gene động, thực vật và trên 700 nguồn gene vi sinh vật; trong đó, làm chủ được 178 quy trình công nghệ, hướng dẫn kỹ thuật về nhân giống, chọn tạo giống, canh tác, nuôi và chăm sóc các nguồn gene; triển khai 129 mô hình thử nghiệm ứng dụng kỹ thuật và nhân rộng kết quả trong thực tiễn sản xuất, mang lại hiệu quả về kinh tế, xã hội tại nơi triển khai.
Ngoài ra, một số nguồn gene đã phát triển thành sản phẩm hàng hóa tập trung, được xây dựng và bảo hộ thương hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, tạo việc làm cho lao động khu vực nông thôn như: cam xã Đoài, bưởi Diễn, quýt Bắc Kạn, hồng không hạt, miến dong, vịt bầu cổ xanh, gạo bao thai Chợ Đồn, khẩu nua lếch Ngân Sơn, chè shan tuyết Bằng Phúc (huyện Chợ Đồn)… Các kết quả nói trên là minh chứng rõ nét cho những nỗ lực của công tác bảo tồn, đánh giá và phát triển nguồn gene trong cả nước thời gian qua.
Các nguồn gene được bảo tồn là nguồn vật liệu vô cùng quý, phục vụ cho công tác chọn tạo, lai tạo các giống mới có năng suất, chất lượng tốt hơn, giá trị cao hơn.
Việt Nam hướng tới thúc đẩy phát triển nền kinh tế nền tảng sinh học, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Do vậy, triển khai Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững gene giai đoạn 2025 - 2030 cần tiếp tục ưu tiên phát triển nghiên cứu cơ bản chuyên sâu về nguồn gene kết hợp với nghiên cứu truyền thống trên các nguồn gene động vật, thực vật và vi sinh vật học.
Bộ Khoa học và Công nghệ nhấn mạnh, đối tượng của chương trình là các nguồn gene sinh vật sống nên công tác bảo tồn và phát triển nguồn gene đòi hỏi phải thường xuyên, liên tục. Vì vậy, việc xây dựng hành lang pháp lý để tiếp tục triển khai Chương trình trong giai đoạn tiếp theo là cấp thiết. Đặc biệt, nhiệm vụ "bảo tồn và phát triển các nguồn gene quý, hiếm" tiếp tục được Bộ Chính trị đặt ra tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 30.1.2023 về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới.
Nghị quyết số 189/NQ-CP ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, Bộ Khoa học và Công nghệ được giao nhiệm vụ xây dựng Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gene giai đoạn 2026 - 2030, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I.2025. Thời gian tới, để hoàn thành các mục tiêu đặt ra, góp phần thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, cần tiếp tục tăng cường, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ phục vụ công tác bảo tồn, lưu giữ, đánh giá nguồn gene; gia tăng nguồn lực khoa học và công nghệ nhằm bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn gene góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ nguồn tài nguyên của đất nước.
Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành kinh tế - kỹ thuật (Bộ KH&CN), Chương trình giai đoạn 2025-2030 sẽ tập trung rà soát, hoàn thiện các cơ chế chính sách nhằm khai thác tốt nhất nguồn gene quý, hiếm, đặc hữu và có giá trị kinh tế cao; tiếp tục thu thập và nhập nội thêm nguồn gen mới để đến năm 2030 có khoảng 100.000 nguồn gene. Lựa chọn và đánh giá tiềm năng di truyền nguồn gene sinh vật có giá trị khoa học và kinh tế; giải mã, xây dựng bản đồ gene của nguồn gen đặc hữu có giá trị kinh tế cao hoặc là các sản phẩm chủ lực, trọng điểm của Việt Nam..../.
Mạnh Dũng
Bình luận