Hotline: 0941068156
Thứ tư, 05/11/2025 14:11
Thứ tư, 05/11/2025 06:11
TMO - Ứng dụng vật liệu nhựa HDPE trong hệ thống lồng nuôi biển đang tạo bước tiến mới cho ngành thủy sản Kiên Giang. Công nghệ hiện đại này không chỉ nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm mà còn mở ra hướng phát triển lâu dài cho nghề nuôi biển ven bờ và xa bờ.
Với đặc tính bền, dẻo, chịu được tác động của sóng gió và môi trường nước mặn, lồng nhựa HDPE đang dần thay thế các loại lồng gỗ truyền thống vốn dễ hư hỏng và gây ô nhiễm môi trường. Mô hình này giúp ngư dân giảm chi phí sửa chữa, kéo dài tuổi thọ thiết bị, đồng thời đảm bảo an toàn trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
Bên cạnh đó, hệ thống lồng HDPE còn giúp tối ưu không gian nuôi, dễ dàng quản lý và kiểm soát quy trình chăm sóc, cho ăn, thu hoạch. Không chỉ nâng cao năng suất và chất lượng thủy sản, công nghệ này còn góp phần hạn chế rủi ro trong sản xuất, hướng tới chuẩn hóa và truy xuất nguồn gốc sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế. Sự chuyển mình của Kiên Giang trong ứng dụng công nghệ HDPE thể hiện quyết tâm hiện đại hóa nghề nuôi biển, tạo nền tảng cho kinh tế biển phát triển có nhiều đột phá.
Với những hiệu quả từ thực tế mang lại, ngay từ năm 2024, Trung tâm Khuyến nông tỉnh An Giang triển khai 3 điểm thực hiện mô hình nuôi cá mú trân châu thương phẩm bằng lồng nhựa HDPE, sử dụng thức ăn công nghiệp tại đặc khu Phú Quốc, mỗi điểm có quy mô 192m3, thả nuôi gần 3.000 con giống. Theo chia sẻ của hộ dân tại khu phố 3 An Thới, đặc khu Phú Quốc, đây cũng là một trong ba hộ dân được hỗ trợ thực hiện mô hình lồng nhựa HDPE cho biết, sau hơn 10 tháng nuôi, cá phát triển tốt, đạt trọng lượng trung bình 1,2kg/con, tỷ lệ sống đến 89%, tổng sản lượng thu hoạch hơn 3 tấn cá thương phẩm.
Với giá bán hiện tại khoảng 170.000 đồng/kg, người dân thu lợi nhuận hơn 150 triệu đồng. So với lồng gỗ truyền thống, lồng HDPE bền hơn, chịu được sóng to, có thể nuôi xa bờ, cá lớn nhanh và ít bệnh nhờ sử dụng thức ăn công nghiệp.
Nếu giá cá tăng, lợi nhuận còn cao hơn nữa. Điều khác biệt dễ nhận thấy nhất là lồng HDPE có khả năng uốn lượn theo sóng biển, giúp hạn chế hư hại trong mùa gió lớn. Ngoài ra, sử dụng thức ăn công nghiệp thay cho cá tạp không chỉ giảm công lao động, mà còn góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản tự nhiên, giảm phát sinh rác thải nhựa từ hoạt động nuôi.
Theo cán bộ Trung tâm Khuyến nông An Giang theo dõi mô hình cho biết, để triển khai hiệu quả kế hoạch phát triển nuôi biển của tỉnh, năm 2025 Trung tâm sẽ tiếp tục mở rộng 9 điểm nuôi cá biển bằng lồng HDPE, tổng quy mô 1.600m3.

Nuôi biển bằng công nghệ lồng HDPE mang lại năng suất thuỷ sản cao, chất lượng ổn định và giảm chi phí chăn nuôi cho người dân. (Ảnh: BKH).
Song song đó, Trung tâm còn tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, phòng, trị bệnh cho cá. Đồng thời, tuyên truyền người dân sản xuất theo chuỗi liên kết, sử dụng thức ăn công nghiệp để giảm rủi ro và nâng cao giá trị sản phẩm. Tính đến nay, toàn tỉnh An Giang đã phát triển 120 lồng nuôi cá biển bằng vật liệu HDPE với tổng quy mô hơn 4.700m3.
Đối tượng nuôi đa dạng như cá mú, cá bớp, cá bè vẫu, cá chim vây vàng… Việc ứng dụng công nghệ vật liệu mới này giúp nghề nuôi biển thích ứng với điều kiện sóng gió khắc nghiệt, giảm ô nhiễm môi trường và góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xanh vùng biển đảo. Không dừng lại ở mô hình thử nghiệm, năm 2025 Trung tâm Khuyến nông tỉnh Kiên Giang sẽ phối hợp Trung tâm Khuyến nông Quốc gia xây dựng mô hình nuôi cá chim vây vàng bằng lồng HDPE đạt chứng nhận VietGAP, tổng quy mô 256m3.
Mô hình này hướng tới liên kết tiêu thụ sản phẩm và kết hợp với du lịch sinh thái, tạo giá trị cộng hưởng cho người nuôi và địa phương. Với quy trình nuôi đạt chứng nhận VietGAP, người nuôi không chỉ có thể truy xuất nguồn gốc rõ ràng, mà còn mở rộng được đầu ra qua các kênh phân phối hiện đại, nâng tầm thương hiệu thủy sản Phú Quốc, An Giang. Việc phát triển nghề nuôi biển bằng lồng HDPE theo hướng công nghiệp và VietGAP không chỉ giúp đa dạng hóa sinh kế cho ngư dân, mà còn là bước đi phù hợp với Đề án phát triển nuôi biển bền vững của Chính phủ, góp phần giảm áp lực khai thác hải sản tự nhiên, bảo vệ hệ sinh thái ven bờ.
Việc Kiên Giang tiên phong ứng dụng công nghệ HDPE trong nuôi biển không chỉ khẳng định tầm nhìn đổi mới của địa phương mà còn cho thấy bước tiến rõ nét trong phát triển kinh tế biển theo hướng hiện đại, xanh và bền vững.
Sự thay đổi từ lồng gỗ truyền thống sang hệ thống lồng nhựa HDPE đã giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đồng thời gia tăng hiệu quả kinh tế cho người nuôi. Đây cũng là nền tảng quan trọng để Kiên Giang mở rộng quy mô nuôi trồng ra vùng biển xa bờ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm thủy sản, đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường trong và ngoài nước.
Bên cạnh đó, mô hình này còn mang lại lợi ích lâu dài về mặt quản lý, giúp ngành thủy sản địa phương chuyển đổi theo hướng công nghệ số, minh bạch quy trình sản xuất và truy xuất nguồn gốc. Với định hướng đúng đắn cùng sự đồng hành của các cán bộ nông nghiệp với người dân, Kiên Giang đang khẳng định vị thế là một trong những địa phương đi đầu trong phát triển nghề nuôi biển công nghệ cao, góp phần quan trọng vào chiến lược kinh tế biển của cả nước.
Thuỳ Trang
Bình luận