Hotline: 0941068156
Thứ tư, 06/11/2024 12:11
Thứ tư, 06/04/2022 15:04
TMO - Để bảo vệ môi trường trước sự gia tăng của biến đổi khí hậu, vấn đề đang được quan tâm là giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất nông nghiệp, trong đó có sản xuất lúa.
Thông tin từ Ban Quản lý các dự án nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, sản xuất nông nghiệp ở nước ta đóng góp khoảng 30% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn quốc. Phát thải khí trong sản xuất nông nghiệp tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực trồng lúa nước, chăn nuôi và quản lý đất, sử dụng phân bón và quản lý đất phát thải, đốt tàn dư thực vật. Các loại khí nhà kính phát thải chính trong nông nghiệp bao gồm khí CH4, N2O và CO2.
Tại hội thảo tham vấn kết quả kiểm kê khí mê tan cho năm 2020, do Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức (24/3), các chuyên gia đã nhận định, nếu tính tỷ trọng tất cả các nguồn phát thải khí mê tan (CH4), hoạt động canh tác lúa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất (AFOLU) chiếm đến 40,44% tổng lượng phát thải năm 2020.
Loại khí này sinh ra chủ yếu do các chất hữu cơ bị phân hủy trong điều kiện yếm khí khi ruộng lúa bị ngập nước. Lượng khí Metan phát thải từ các ruộng lúa có thể khác nhau, tùy thuộc vào loại đất trồng lúa và nhiệt độ. Ruộng lúa bị ngập nước càng lâu thì lượng khí Metan sinh ra sẽ càng nhiều.
Canh tác lúa là một trong những nguồn phát thải khí metan lớn nhất
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất lúa trọng điểm của quốc gia, chiếm hơn 50% diện tích gieo trồng và sản lượng lúa của cả nước sản xuất mỗi năm. Hiện nay, các kỹ thuật canh tác lúa có thể làm tăng năng suất lúa, gia tăng sản lượng lúa nhưng cũng có thể tác động ngược lại là làm tăng lượng phát thải khí nhà kính.
Trước yêu cầu giảm phát thải khí trong quá trình sản xuất nông nghiệp, trong đó có sản xuất lúa, các chuyên gia cho rằng Việt Nam đã có nhiều chính sách liên quan đến việc thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, đối với việc thực hiện giảm phát thải trong lĩnh vực sản xuất lúa nước, ngoài nguồn lực của Nhà nước, rất cần thêm nhiều nguồn kinh phí, nhất là khu vực tư nhân đầu tư vào hạ tầng nông nghiệp, theo hướng lồng ghép với kỹ thuật canh tác giảm phát thải khí nhà kính.
Để giảm phát thải khí nhà kính trong trồng lúa nước cần thực hiện đồng bộ các biện pháp như: áp dụng công nghệ “nông lộ phơi”, tức là chế độ tưới nước chủ động khô và ngập nước thay vì để các ruộng lúa ngập nước trong suốt cả mùa vụ, từ đó giúp giảm phát thải khí Metan.
Tuy nhiên, với giải pháp này cần xây dựng hệ thống thủy lợi chủ động để áp dụng công nghệ phù hợp và cũng đòi hỏi chí phí đầu tư tương đối lớn. Do đó, nếu không có các nguồn lực hỗ trợ, nhiều nông dân sẽ chưa muốn làm theo. Đồng thời, để áp dụng biện pháp này cần có diện tích canh tác lúa tập trung nên chỉ có một số địa bàn cụ thể mới có thể áp dụng.
Ngoài ra, cần chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang các cây trồng cạn khác. Do lượng phát thải trong cây trồng cạn thấp nên chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang canh tác các loại cây trồng cạn sẽ giúp giảm phát thải khí nhà kính. Để đạt hiệu quả bền vững, đòi hỏi mỗi địa phương phải có quy hoạch cụ thể liên quan đến sản xuất, thị trường sản phẩm cũng như chi phí đầu tư cảo tạo hệ thống thủy lợi, cơ sở chế biến.
Tại tỉnh Kiên Giang, địa phương đang chịu nhiều tác động tiêu cực bởi biến đổi khí hậu, tỉnh khuyến khích nông dân triển khai, áp dụng kỹ thuật canh tác nông nghiệp hữu cơ, quy trình tưới, tiêu tiết kiệm trong canh tác và sử dụng phế phẩm trong nông nghiệp thông qua các mô hình như trồng rau thủy canh, trồng ngô nếp theo hướng an toàn, trồng rau ăn quả sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt.
Thời gian qua, địa phương này đang triển khai mô hình canh tác lúa giảm phát thải khí nhà kính đã được triển khai tại Hợp tác xã Kênh 7B, huyện Tân Hiệp, do Cơ quan Viện trợ phát triển quốc tế Australia tài trợ. Mô hình canh tác này áp dụng “1 phải 6 giảm”. Một phải là canh tác bằng giống lúa xác nhận và “6 giảm” là giảm lượng giống, giảm thuốc bảo vệ thực vật, giảm lượng phân bón, giảm lượng nước tưới, giảm thất thoát sau thu hoạch và giảm khí phát thải.
Mô hình này đã cho nhiều hiệu quả thiết thực như giảm chi phí sản xuất so với phương pháp canh tác truyền thống, tăng năng suất lúa, tận dụng được nguồn rơm rạ sau thu hoạch để làm thức ăn chăn nuôi, trồng nấm, thay vì trước đây người dân thường đốt và vùi rơm rạ xuống đất, trong điều kiện đất ngập nước sẽ gây yếm khí, phát thải khí, ảnh hưởng đến môi trường.
Hồng Thắm
Bình luận