Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 23/11/2024 11:11
Thứ bảy, 16/12/2023 12:12
TMO - Nguồn thu dịch vụ môi trường rừng giúp huy động nguồn tài chính ổn định để đầu tư cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, góp phần quan trọng trong việc quản lý, khai thác có hiệu quả, bền vững tại các địa phương trên cả nước.
Diện tích rừng hiện có của cả nước là 14,79 triệu ha, tỷ lệ che phủ rừng hiện nay đạt 42,02%. Theo báo cáo của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) về đánh giá tài nguyên rừng toàn cầu, trong khi diện tích rừng trên thế giới suy giảm mạnh, diện tích rừng trồng thấp, thì Việt Nam là một trong 10 quốc gia trên thế giới có diện tích rừng tăng cao nhất, có diện tích rừng trồng lớn nhất thế giới.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm xã hội hóa nghề rừng, nâng cao giá trị gia tăng của rừng; huy động các nguồn lực của xã hội, đặc biệt của các tổ chức, cá nhân được hưởng lợi từ DVMTR vào việc bảo vệ và phát triển rừng.
Sau hơn 10 năm triển khai, đến nay, DVMTR đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, tạo lập nguồn tài chính ngoài ngân sách ổn định, bền vững phục vụ công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, góp phần cải thiện sinh kế, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho người làm nghề rừng và sống gắn bó với rừng. Đáng chú ý, hoạt động chi trả dịch vụ môi trường rừng đã tạo nguồn lực tài chính quan trọng, góp phần giúp cải thiện thu nhập cho các ban quản lý rừng, người dân địa phương, đặc biệt là đồng bào dân tộc và người dân sinh sống ở khu vực miền núi tại vùng đệm các khu rừng đặc dụng và giáp ranh các khu rừng phòng hộ.
Hàng năm có trên 250.000 hộ gia đình được chi trả tiền DVMTR. Trong giai đoạn 2011 – 2020, số hộ gia đình này đã được chi trả 3.647 tỷ đồng, tạo thêm nguồn thu bằng tiền mặt vào khoảng 15%, giúp giảm bớt khó khăn, xóa đói giảm nghèo, phát triển sản xuất của các hộ. Đồng thời, với việc chi trả ổn định bình quân 50 triệu đồng/cộng đồng/năm đã giúp các cộng đồng tạo lập được mối liên kết chặt chẽ, nâng cao nhận thức và năng lực tự quản lý bảo vệ rừng.
Hoạt động chi trả dịch vụ môi trường rừng đã tạo nguồn lực tài chính quan trọng, góp phần giúp cải thiện thu nhập cho các ban quản lý rừng, người dân địa phương.
Bộ NN&PTNT cho biết, trong năm 2022, cả nước đã thu được trên 3.700 tỷ đồng; 11 tháng của năm 2023 đã thu được gần 3.100 tỷ đồng. Hiện nay, theo quy định pháp luật, có các loại dịch vụ môi trường rừng là: Bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối; điều tiết, duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội; hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng; giảm phát thải khí nhà kính từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững, tăng trưởng xanh; bảo vệ, duy trì vẻ đẹp cảnh quan tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng cho kinh doanh dịch vụ du lịch; cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn, con giống tự nhiên, nguồn nước từ rừng và các yếu tố từ môi trường, hệ sinh thái rừng để nuôi trồng thủy sản.
Theo đánh giá của ngành Nông nghiệp, hiện nước ta còn nhiều dư địa, tiềm năng lớn cho phát triển dịch vụ môi trường rừng như: dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng; giảm phát thải khí nhà kính từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững. Đây là một trong những thuận lợi để định hướng phát triển chi trả DVMTR trong thời gian tới. Bên cạnh đó, DVMTR tiếp tục được Chính phủ, Bộ ngành quan tâm và khuyến khích phát triển trong giai đoạn 2021-2030 và là một trong các mục tiêu của Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050.
Thông tin từ Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Trung ương cũng thống kê đến thời điểm này, cả nước có trên 228 ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ nhận được kinh phí chi trả từ dịch vụ môi trường rừng với tổng diện tích rừng được chi trả là trên 4,3 triệu ha và tương ứng với tổng số tiền là trên 1.663 tỷ đồng. Cụ thể, có 75 ban quản lý rừng đặc dụng được chi trả 1,35 triệu ha rừng, tương ứng với số tiền được nhận là 441 tỷ đồng và có 153 ban quản lý rừng phòng hộ được chi trả trên 2,95 triệu ha rừng, tương ứng với số tiền được nhận là 1.222 tỷ đồng. Tổng số tiền được hưởng từ dịch vụ môi trường của ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng đã được chi trả theo đúng quy định và nguồn thu đã tạo sự ủng hộ của người dân trong công tác bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và phát triển bền vững tài nguyên rừng.
Cục Lâm nghiệp cho biết, trong năm 2023 một số địa phương đang xây dựng và hoàn thiện hồ sơ thành lập mới các khu rừng đặc dụng như: Khu bảo tồn loài và sinh cảnh voọc mông trắng tại huyện Kim Bảng (Hà Nam) với diện tích 3.182 ha; Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Quảng Châu (Quảng Ninh) với diện tích đề xuất là 18.278 ha; Khu bảo vệ cảnh quan bảo tồn di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị) với diện tích khoảng 132 ha.
Một số khu đang xây dựng hồ sơ đề xuất nâng cấp, chuyển hạng từ khu dự trữ thiên nhiên thành vườn quốc gia, như: Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên (Thanh Hóa), Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát (Lào Cai), Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô (Đắk Lắk). Hiện nay, đã có 143 đơn vị đã xây dựng phương án bảo tồn và quản lý rừng bền vững và được cấp có thẩm quyền phê duyệt (chiếm 69%); 16 đơn vị đang trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định; 8 đơn vị chưa thực hiện.
Dịch vụ môi trường rừng là một trong những nguồn lực quan trọng góp phần bảo vệ, phát triển rừng tại các địa phương.
Nhằm để tiếp tục phát huy tiềm năng từ dịch vụ môi trường rừng, trong thời gian tới, Bộ NN&PTNT sẽ rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định tại các nghị định, thông tư hướng dẫn liên quan hoặc ban hành các nghị định, thông tư mới. Trong đó, sẽ tập trung vào mở rộng đối tượng DVMTR đã và đang thực hiện và tổ chức thực hiện các loại hình dịch vụ mới như dịch vụ kinh doanh du lịch sinh thái bên ngoài phạm vi khu rừng nhưng có sử dụng vẻ đẹp cảnh quan do rừng tạo ra; dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon đối với tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh gây phát thải khí nhà kính lớn và bán tín chỉ các-bon ra thị trường thế giới.
Đồng thời, quy định lại cách tính đơn giá bình quân chi trả cho 1 ha rừng đối với tiền thu DVMTR từ các nhà máy thủy điện bậc thang theo hướng tách tiền chi trả đối với loại hình dịch vụ bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối cho những diện tích rừng nằm trên lưu vực của từng nhà máy thủy điện; tiền chi trả đối với loại hình dịch vụ điều tiết, duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội cho những diện tích rừng nằm trên tất cả các lưu vực của các nhà máy thủy điện bậc thang. Quy định lại cơ chế điều chỉnh khi chi trả tiền DVMTR chênh lệch quá lớn giữa các tỉnh có rừng trong cùng lưu vực sông.
Hương Lê
Bình luận