Hotline: 0941068156
Thứ năm, 28/11/2024 00:11
Thứ ba, 03/09/2024 07:09
TMO - Để tiếp tục huy động nguồn lực bổ sung cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất và kiến nghị Chính phủ cho phép tiếp tục thực hiện chuyển nhượng bổ sung 1 triệu tấn CO2 cho Ngân hàng Thế giới.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), cuối năm 2023, Bộ NN&PTNT đã thực hiện chuyển nhượng 10,3 triệu tấn carbon (CO2) cho Ngân hàng Thế giới (WB) theo thoả thuận. Ngay sau đó, WB có thư xác nhận chuyển giao lại khoảng 95% kết quả giảm phát thải đã chuyển nhượng cho Việt Nam để đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) theo cam kết chuyển nhượng (ERPA) và quy định tại Nghị định 107/2022/NĐ-CP. Trước đó, WB có Công thư gửi Bộ NN&PTNT xác nhận kết quả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2019 đạt 16,21 triệu tấn CO2. Trong đó, lượng chuyển nhượng cho WB theo ERPA là 10,3 triệu tấn CO2.
Theo ERPA đã ký, WB có quyền mua bổ sung tối đa 5 triệu tấn CO2, mức giá 5 USD/tấn, khoảng 95% kết quả chuyển nhượng được chuyển giao lại cho Việt Nam để đóng góp vào NDC. Hiện, WB đề xuất mua bổ sung 1 triệu tấn CO2 từ kết quả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2019. Bộ NN&PTNT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ, đề xuất phương án chuyển nhượng bổ sung 1 triệu tấn CO2 cho WB theo ERPA đã ký; đồng thời đề xuất xử lý đối với 4,91 triệu tấn CO2 của giai đoạn 2018-2019 tại các văn bản đã gửi trước đó. Ngoài ra, Bộ NN&PTNT cũng đã lấy ý kiến các bộ và UBND 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ về phương án chuyển nhượng 1 triệu tấn CO2 cho WB và đề xuất xử lý số lượng carbon còn dư.
Việt Nam đang hoàn thiện cơ chế chính sách thúc đẩy phát triển thị trường carbon. Ảnh minh họa.
Về việc chuyển nhượng bổ sung 1 triệu tấn CO2 cho WB nằm trong khối lượng bổ sung tối đa 5 triệu tấn CO2 theo ERPA đã ký, được Chính phủ giao thẩm quyền cho Bộ NN&PTNT thay mặt Chính phủ Việt Nam và các chủ rừng tại 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ chuyển nhượng cho WB trong thời gian thực hiện ERPA. Mặt khác, kết quả giảm phát thải chuyển nhượng này là kết quả tạo ra trong quá khứ (giai đoạn 2018-2019), nên rất khó có thể tìm kiếm các đối tác khác để thực hiện trao đổi, thương mại, để lâu sẽ bị mất giá theo thời gian. Trong khi đó, thị trường carbon trong nước sẽ được thiết lập và vận hành chính thức vào năm 2028. Do đó, để tiếp tục huy động nguồn lực bổ sung cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, Bộ NN&PTNT đề xuất và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép Bộ này tiếp tục thực hiện chuyển nhượng bổ sung 1 triệu tấn CO2 cho WB.
Đối với 4,91 triệu tấn CO2 từ lượng giảm phát thải còn lại, WB không đề xuất mua thêm. Vì vậy, Việt Nam có quyền chuyển nhượng cho các đối tác tiềm năng khác. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, Bộ NN&PTNT chưa nhận được đề xuất của các tổ chức, đối tác trong và ngoài nước về trao đổi, chuyển nhượng lượng giảm phát thải này. Theo đó, Việt Nam có thể sử dụng lượng giảm phát thải còn dư này đóng góp vào NDC quốc gia.
Trường hợp có tổ chức, đối tác quan tâm, đề xuất trao đổi, chuyển nhượng, Bộ NN&PTNT sẽ nghiên cứu, đề xuất phương án quản lý, sử dụng nguồn thu này, lấy ý kiến của Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường và 6 tỉnh Bắc Trung Bộ, sau đó báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định để đảm bảo không ảnh hưởng đến kết quả đóng góp vào NDC. Còn trong trường hợp chưa có ý kiến đồng ý của Thủ tướng về việc thực hiện chuyển nhượng lượng giảm phát thải còn dư của vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2019 (gồm 1 triệu tấn CO2 theo đề xuất của WB và 4,91 triệu tấn CO2 còn lại), Bộ NN&PTNT kiến nghị cho phép Bộ có Công thư gửi WB về việc chưa chuyển nhượng thêm 1 triệu tấn CO2.
Đến khi có kết quả đánh giá, tổng kết kết quả thực hiện triển khai Nghị định số 107/2022/NĐ-CP, Bộ NN&PTNT đề xuất phương án quản lý, sử dụng đối với lượng giảm phát thải còn dư báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Tín chỉ carbon – tiềm năng và thách thức
Tín chỉ carbon là một loại hàng hóa môi trường, biểu thị cho một lượng khí nhà kính được giảm phát thải hoặc hấp thụ bởi một dự án hay một hoạt động nào đó. Tín chỉ carbon có thể được bán và mua trên thị trường tự nguyện hoặc bắt buộc, tùy theo quy định của các cơ quan quản lý và các cam kết quốc tế. Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng lớn về tín chỉ carbon, đặc biệt là từ rừng, nông nghiệp và năng lượng. Theo một số nghiên cứu, Việt Nam có thể bán ra 57 triệu tấn CO2 giảm phát thải cho các tổ chức quốc tế, với giá khoảng 5USD/tấn, mỗi năm có thể thu về hàng trăm triệu USD. Đây là một nguồn thu nhập mới cho người trồng rừng, bảo vệ rừng, đồng thời góp phần vào mục tiêu giảm phát thải chung của nền kinh tế.
Các tỉnh Bắc Trung Bộ là một trong những khu vực tiên phong phát triển tín chỉ carbon từ rừng. Thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ là một bước đột phá trong việc hợp tác với Quỹ Đối tác carbon trong lâm nghiệp để bán 10,3 triệu tấn CO2 giảm phát thải từ rừng tại 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2024. Đây là một cơ hội để các tỉnh này nâng cao năng lực quản lý rừng, cải thiện đời sống cho người dân địa phương và thúc đẩy phát triển xanh.
Tuy nhiên, để tận dụng tiềm năng của tín chỉ carbon, Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều thách thức như: Thiếu hụt khung pháp lý, hệ thống giám sát báo cáo kiểm toán, cơ chế phân phối lợi ích, năng lực nhân sự và tài chính, cạnh tranh quốc tế và biến đổi khí hậu. Theo đề án phát triển thị trường tín chỉ carbon do Bộ Tài chính dự thảo thì sàn giao dịch tín chỉ carbon của Việt Nam phải đến năm 2028 mới chính thức vận hành. Giá tín chỉ carbon của Việt Nam giao dịch trên thị trường quốc tế hiện vẫn còn khoảng cách khá xa với giá tín chỉ giao dịch tại châu Âu hay Mỹ. Do đó, cần có sự đồng thuận và hợp tác giữa các bên liên quan, cũng như sự hỗ trợ từ các đối tác quốc tế, để xây dựng và vận hành thị trường carbon hiệu quả, công bằng.
PHẠM DUNG
Bình luận