Hotline: 0941068156
Thứ tư, 10/12/2025 10:12
Thứ ba, 09/12/2025 13:12
TMO - Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến khó lường, việc phát triển rừng ven biển là giải pháp quan trọng để các địa phương nâng cao năng lực ứng phó với thiên tai.
Xác định rừng phòng hộ ven biển đóng vai trò rất quan trọng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 120/QĐ-TTg về Đề án bảo vệ và phát triển rừng ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2015-2020. Ngày 4/10/2021, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 1662/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Bảo vệ và phát triển rừng vùng ven biển nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và thúc đẩy tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030”.
Đề án ban hành nhằm phấn đấu đạt được mục tiêu quản lý, bảo vệ và sử dụng bền vững diện tích rừng vùng ven biển hiện có và diện tích rừng được tạo mới trong giai đoạn 2021-2030. Phát huy hiệu quả vai trò, chức năng của rừng vùng ven biển trong việc phòng hộ, bảo vệ môi trường và hệ thống kết cấu hạ tầng vùng ven biển; chống sa mạc hóa, suy thoái đất; bảo tồn đa dạng sinh học, giảm phát thải khí nhà kính; tạo việc làm, thu nhập cho người dân vùng ven biển, góp phần phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường và củng cố quốc phòng-an ninh, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và nước biển dâng...

Rừng ven biển trở thành lá chắn quan trọng giúp các địa phương chủ động phòng, chống thiên tai.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong giai đoạn 2021-2025, công tác bảo vệ và phát triển rừng ven biển đạt nhiều kết quả tích cực. Tổng diện tích trồng rừng đạt hơn 11.600ha, gồm khoảng 7.700ha rừng ngập mặn và hơn 4.100ha rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát.
Diện tích trồng rừng mới đạt hơn 6.400ha; diện tích trồng bổ sung, phục hồi và làm giàu rừng đạt trên 5.100ha. Ngoài ra, các địa phương còn khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh gần 8.000ha rừng và trồng khoảng 329 triệu cây phân tán ven biển. Nhiều địa phương đạt kết quả cao trong trồng rừng ven biển như Quảng Ninh, TP.Huế, Hải Phòng, Vĩnh Long. Riêng tỉnh Cà Mau trồng gần 1.880ha rừng ven biển, là địa phương có diện tích trồng lớn nhất.
Cà Mau là một trong những địa phương có chiều dài bờ biển lớn nhất cả nước, với hệ sinh thái rừng ngập mặn đặc thù, giữ vai trò lá chắn phòng hộ ven biển, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và tạo sinh kế bền vững cho hàng chục nghìn hộ dân. Tỉnh hiện quản lý hơn 148.000 ha rừng và đất rừng, trong đó trên 102.000 ha là rừng ngập mặn.
Với sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, công tác bảo vệ và phát triển rừng ven biển đạt nhiều kết quả quan trọng. Tỉnh duy trì tốt diện tích rừng hiện có, tổ chức hơn 93.000 lượt ha tuần tra, kiểm tra mỗi năm; phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng kiểm lâm, biên phòng, công an và chính quyền địa phương trong bảo vệ rừng.
Hoạt động trồng mới và phục hồi rừng được triển khai đồng bộ: Trồng mới 772,4 ha rừng ngập mặn; Khoanh nuôi tái sinh 550 ha; Phục hồi khoảng 269 ha thông qua các dự án như WWF, GCF, SRD, KFW, IUCN… Mô hình tôm – rừng sinh thái tiếp tục là điểm sáng khi hơn 31.000 ha được chứng nhận quốc tế như Naturland, ASC, EU Organic. Người dân tham gia mô hình được doanh nghiệp thu mua với giá cao hơn 10–15%, góp phần nâng cao sinh kế và giảm áp lực lên tài nguyên rừng.
Bên cạnh đó, tỉnh đẩy mạnh ứng dụng công nghệ GIS, ảnh vệ tinh, viễn thám, theo dõi biến động rừng và cảnh báo sạt lở. Các nguồn lực xã hội hóa được huy động mạnh mẽ từ doanh nghiệp và tổ chức quốc tế hỗ trợ trồng rừng, phục hồi rừng, nâng cao nhận thức cộng đồng về biến đổi khí hậu.

Người dân tham gia trồng, phục hồi rừng ngập mặn tại Cà Mau (Ảnh minh họa: AT).
Tuy nhiên việc phát triển rừng phòng hộ ven biển có nhiều khó khăn do đây là khu vực chịu tác động mạnh của thiên tai, triều cường và nước biển dâng gây xói lở bờ biển, cửa sông gây mất rừng và khó khăn trong trồng rừng. Nhiều diện tích trồng rừng do bãi bồi ngập nước sâu, khó gây bồi tạo bãi để trồng cũng như đất hoang hóa từ nuôi trồng thủy sản...
Bên cạnh đó, đất quy hoạch rừng ven biển thường xuyên biến động do nhu cầu sử dụng đất để phát triển kinh tế-xã hội. Tình trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất quy hoạch cho trồng rừng ven biển sang mục đích khác, xâm lấn đất rừng để nuôi trồng, đánh bắt thủy sản... đã ảnh hưởng đến tiến độ và kết quả trồng rừng ven biển.
Trước thực trạng trên, trong giai đoạn 2026-2030 các tỉnh, thành ven biển đặt mục tiêu khôi phục và phát triển 23.374ha rừng. Trong đó trồng mới 13.558ha (gồm hơn 5.100ha rừng ngập mặn). Đồng thời, công tác trồng bổ sung và làm giàu rừng sẽ được thực hiện trên diện tích gần 9.800 ha nhằm nâng cao khả năng phòng hộ. Việc hoàn thành các mục tiêu này không chỉ để bảo vệ đê điều hay chắn sóng, mà chính là chìa khóa để các địa phương thích ứng với biến đổi khí hậu và hiện thực hóa khát vọng tăng trưởng xanh trong thập kỷ tới.
Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm đề nghị các tỉnh, thành ven biển cần tuân thủ đầy đủ Luật Lâm nghiệp và các chính sách liên quan, đồng thời báo cáo kịp thời những vướng mắc trong quá trình triển khai. Cùng với đó, các địa phương phải triển khai nghiêm túc Quy hoạch lâm nghiệp quốc gia thời kỳ 2021-2030, rà soát, bố trí quỹ đất phù hợp cho phát triển rừng ven biển, ưu tiên diện tích trồng rừng phòng hộ. Kế hoạch phát triển rừng giai đoạn 2026-2030 cần được rà soát và gửi Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong quý I/2026.
Trong quá trình thực hiện dự án, địa phương cần khảo sát kỹ điều kiện lập địa, chọn loài cây phù hợp, áp dụng biện pháp kỹ thuật lâm sinh để tăng tỷ lệ sống của rừng và nâng cao hiệu quả đầu tư. Công tác kiểm tra, giám sát, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý rừng phải được chú trọng nhằm kịp thời xử lý vướng mắc, bảo đảm tiến độ dự án và chỉ tiêu kế hoạch.
Bên cạnh đó, cần nhân rộng các mô hình bảo vệ và phát triển rừng gắn với sinh kế nông - lâm - ngư kết hợp; quản lý chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng ven biển; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Công tác tuyên truyền, vận động người dân chấp hành pháp luật về lâm nghiệp, ký cam kết bảo vệ rừng, cũng như giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho cộng đồng phải được tiếp tục đẩy mạnh, nhằm tăng cường quản lý rừng bền vững tại các địa phương./.
Lê Hằng
Bình luận