Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 23/11/2024 12:11
Thứ năm, 18/01/2024 07:01
TMO - Không chỉ giải quyết công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập cho người dân, dịch vụ môi trường rừng còn góp phần hạn chế, ngăn chặn tình trạng phá rừng trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Theo đánh giá của UBND tỉnh Nghệ An, trong bối cảnh nguồn vốn ngân sách phục vụ công tác quản lý bảo vệ rừng hạn chế thì nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng, trồng rừng thay thế đã duy trì sự ổn định, góp phần giảm áp lực cho ngân sách nhà nước trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Đồng thời, tạo ra nhiều việc làm, cải thiện sinh kế, tăng thu nhập, đời sống của người làm nghề rừng, người bảo vệ rừng, đặc biệt là đồng bào vùng núi cao, góp phần giữ vững an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, tăng độ che phủ rừng trên địa bàn toàn tỉnh.
Toàn tỉnh Nghệ An hiện có 962.230,69ha rừng, trong đó có 789.933,97ha rừng tự nhiên, 172.296,52ha rừng trồng, độ che phủ rừng đạt 58,36%. Trong những năm qua, công tác quản lý bảo vệ rừng theo hướng xã hội hóa nghề rừng, phát triển và sử dụng hợp lý tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp, huy động sự tham gia rộng rãi, tích cực của các nguồn lực, góp phần bảo vệ môi trường, sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc bảo vệ phát triển rừng bền vững luôn được Tỉnh ủy, UBND tỉnh, ngành lâm nghiệp Nghệ An hết sức quan tâm và tập trung chỉ đạo quyết liệt bằng nhiều giải pháp, biện pháp. Trong các biện pháp quản lý và bảo vệ rừng, đã xuất hiện mô hình bảo vệ rừng dựa vào cộng đồng rất hiệu quả.
Việc thực hiện tốt chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã từng bước góp phần ổn định, đảm bảo diện tích rừng, duy trì độ che phủ của rừng, nâng cao chất lượng rừng trên địa bàn tỉnh.
Thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, đến nay, diện tích chi trả là 560.000ha (chiếm hơn 57% diện tích có rừng toàn tỉnh). Việc thực hiện tốt chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã từng bước góp phần ổn định, đảm bảo diện tích rừng, duy trì độ che phủ của rừng, nâng cao chất lượng rừng và góp phần cải thiện chất lượng môi trường sinh thái ở Nghệ An.
Năm 2023, nguồn thu của Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Nghệ An đạt hơn 123,6 tỷ đồng (đạt 102% so với kế hoạch). Ngoài kinh phí chi trả tiền bảo vệ rừng cung ứng dịch vụ môi trường rừng hàng năm (theo đơn giá của các lưu vực thuỷ điện) thì chính sách dịch vụ môi trường rừng cũng đã hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân phục vụ công tác bảo vệ rừng. Năm 2023, quỹ đã chi thanh toán đạt 116% so với kế hoạch được phê duyệt và đạt 100% số tiền thực phải chi cho các chủ rừng (tổng số tiền hơn 115,6 tỷ đồng).
Đến nay, trên địa bàn Nghệ An, số đối tượng được chi trả dịch vụ môi trường rừng gồm 20.938 chủ rừng là hộ gia đình, cộng đồng và có 1.310 hợp đồng nhận khoán bảo vệ rừng. Ngoài kinh phí được chi trả theo kế hoạch, quỹ tỉnh đã tham mưu hỗ trợ bổ sung đơn giá chi trả dịch vụ môi trường rừng cho các lưu vực thuỷ điện... Thực hiện nhiệm vụ thu, chi trồng rừng thay thế, năm 2023, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Nghệ An đã triển khai thu tiền chuyển đổi mục đích sử dụng rừng của 21 dự án là hơn 23,5 tỷ đồng. Nhờ nguồn thu đó, công tác trồng rừng thay thế được triển khai hiệu quả. Hiện nay, tổng diện tích đã thực hiện trồng gần 4600ha, trong đó, trồng rừng phòng hộ đạt hơn 1.133ha; trồng rừng sản xuất hơn 1.600ha; trồng cây phân tán (diện tích quy đổi) hơn 1.600ha.
Năm 2024 những nhiệm vụ trọng tâm được Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh triển khai là tiếp tục phối hợp với UBND các huyện, thị xã, thành phố tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện; chủ trì, phối hợp với hạt kiểm lâm xác định diện tích rừng được chi trả dịch vụ môi trường rừng cho hộ gia đình, cá nhân, công đồng dân cư. Đồng thời, phối hợp với Chi cục Kiểm lâm xác định diện tích rừng được chi trả dịch vụ môi trường rừng cho chủ rừng là tổ chức; thanh toán tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng năm 2023, tạm ứng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng năm 2024 cho các chủ rừng theo quy định.
Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng phối hợp với Chi cục Kiểm lâm xác định diện tích rừng được chi trả dịch vụ môi trường rừng cho chủ rừng. Ảnh: VT.
Hiện nay, theo quy định pháp luật, có các loại dịch vụ môi trường rừng là: Bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối; điều tiết, duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội; hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng; giảm phát thải khí nhà kính từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững, tăng trưởng xanh; bảo vệ, duy trì vẻ đẹp cảnh quan tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng cho kinh doanh dịch vụ du lịch; cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn, con giống tự nhiên, nguồn nước từ rừng và các yếu tố từ môi trường, hệ sinh thái rừng để nuôi trồng thủy sản.
Số liệu của Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Trung ương cũng thống kê đến thời điểm này, cả nước có trên 228 ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ nhận được kinh phí chi trả từ dịch vụ môi trường rừng với tổng diện tích rừng được chi trả là trên 4,3 triệu ha và tương ứng với tổng số tiền là trên 1.663 tỉ đồng. Cụ thể, có 75 ban quản lý rừng đặc dụng được chi trả 1,35 triệu ha rừng, tương ứng với số tiền được nhận là 441 tỉ đồng và có 153 ban quản lý rừng phòng hộ được chi trả trên 2,95 triệu ha rừng, tương ứng với số tiền được nhận là 1.222 tỉ đồng.
Tổng số tiền được hưởng từ dịch vụ môi trường của ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng đã được chi trả theo đúng quy định và nguồn thu đã tạo sự ủng hộ của người dân trong công tác bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và phát triển bền vững tài nguyên rừng. Kinh phí thu được từ dịch vụ môi trường rừng đã giúp người dân có động lực trồng tái sinh rừng. Đây cũng là khởi nguồn của việc trồng rừng gỗ lớn, đảm bảo chất lượng rừng và nguồn cung ổn định cho sản xuất lâm nghiệp.
Theo Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT), hoạt động chi trả dịch vụ môi trường rừng đã tạo nguồn lực tài chính quan trọng, góp phần giúp cải thiện thu nhập cho các ban quản lý rừng, người dân địa phương, đặc biệt là đồng bào dân tộc và người dân sinh sống ở khu vực miền núi tại vùng đệm các khu rừng đặc dụng và giáp ranh các khu rừng phòng hộ.
Việt Nam đã tham gia ký Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu, theo đó Việt Nam cam kết đến năm 2030, bằng nguồn lực trong nước sẽ giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường. Bên cạnh đó, Luật Lâm nghiệp và Nghị định số 156/2018/NĐ-CP quy định chi tiết được ban hành, theo đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức thí điểm, tổng kết, trình Chính phủ quy định cụ thể đối tượng, hình thức chi trả, mức chi trả, quản lý, sử dụng tiền chi trả dịch vụ về hấp thụ và lưu trữ các-bon của rừng.
Đây chính là cơ hội để thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính theo cam kết, góp phần thực hiện chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Việc tăng nhanh các nguồn thu từ dịch vụ môi trường còn giúp nâng cao thu nhập cho người làm nghề rừng, thúc đẩy phát triển kinh tế rừng ổn định, bền vững
Vũ Minh
Bình luận