Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 16/11/2025 08:11
Chủ nhật, 16/11/2025 06:11
TMO - Biển Việt Nam rộng lớn hơn 3 lần đất liền, nhưng chúng ta mới chỉ khai thác được một phần rất nhỏ. Phần còn lại đang chờ được canh tác, được đầu tư, được đánh thức bằng tầm nhìn mới.
Việt Nam với đường bờ biển dài hơn 3.200km và vùng biển với diện tích khoảng 1 triệu km2, có tiềm năng, lợi thế vô cùng lớn trong việc phát triển nghề canh tác biển/nuôi biển (cách gọi khác là nuôi trồng thủy sản). Tuy nhiên, canh tác biển hiện nay còn nhiều tiềm năng chưa được đánh thức. Vậy cần làm gì để phát triển canh tác biển một cách bền vững, đồng thời đem lại sinh kế cho người dân ở ven biển, nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành thủy sản?
Theo các chuyên gia, để có thể thực hiện được khát vọng canh tác biển, cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ, từ thể chế, vốn, hạ tầng đến công nghệ và con người. Muốn người dân gắn bó với biển, làm giàu từ biển, trước tiên phải giải quyết quyền sử dụng tư liệu sản xuất - tức là quyền được sử dụng hợp pháp, đủ dài và canh tác trên một khu vực biển. Nếu trên đất liền có “sổ đỏ” - quyền sở hữu đất, thì trên biển cũng cần có “sổ xanh” - quyền sử dụng khu vực biển. Khi và chỉ khi được giao quyền sử dụng lâu dài khu vực biển, người dân mới yên tâm đầu tư.
.png)
(Ảnh minh họa)
Đối với đất, nếu chỉ giao quyền sử dụng 1 năm thì người dân chỉ dựng lều; giao 10 năm thì họ dựng nhà cấp 4; nhưng giao 50 năm thì họ xây nhà cao tầng ngay. Với quyền sử dụng khu vực biển cũng tương tự như thế. Cho đến nay các địa phương chỉ tạm giao quyền sử dụng khu vực biển cho dân vài năm một, thì người dân chỉ làm bè nuôi bằng các vật liệu tận dụng, không thể đầu tư bài bản.
Hiện nay, thủ tục giao khu vực biển cho dân để nuôi biển thực hiện theo Nghị định 11/2021, được điều chỉnh theo Nghị định 65/2025/NĐ-CP của Chính phủ (trong đó có việc tăng thời hạn giao biển cho nuôi trồng thủy sản từ 30 năm lên 50 năm), với một số thủ tục còn phiền phức, tốn nhiều thời gian của các người nuôi biển. Chuyên gia cho rằng, đây chính là nút thắt lớn nhất cần tháo gỡ.
Theo chuyên gia, người dân bao giờ cũng thiếu vốn. Khi quyền sử dụng khu vưc biển được xác lập, “sổ xanh” cũng sẽ trở thành tài sản có giá trị pháp lý, giúp người dân có thể góp vốn, thế chấp để vay vốn ngân hàng… Có như vậy người dân mới có thể đầu tư hạ tầng và những chi phí sản xuất thường xuyên.
Để chuyển đổi vùng nuôi biển nhỏ lẻ manh mún hiện nay thành các vùng nuôi có quy hoạch, được thiết kế cẩn thận, cần phải thành lập các cụm công nghiệp và khu công nghiệp nuôi biển, với hai bộ phận là trên biển và trên bờ. Khi các cụm công nghiệp này hình thành, doanh nghiệp, hợp tác xã và ngư dân sẽ được thuê hạ tầng đã làm sẵn, giảm áp lực đầu tư lồng bè, tập trung vốn vào sản xuất và kinh doanh. Lao động được chuyên nghiệp hóa, sử dụng các công nghệ hiện đại để theo dõi vật nuôi, ngư dân không phải ngủ lại trên biển để canh giữ trại nuôi, nhờ đó giảm ô nhiễm sinh hoạt và rác thải trên mặt nước. Trong các cụm công nghiệp nuôi biển này, quy trình canh tác biển sẽ tuân theo tiêu chuẩn chung, hình thành sản lượng hải sản lớn, tập trung, đồng chất lượng - đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc và đánh giá theo chuẩn quốc tế.
Không chỉ vậy, mô hình cụm công nghiệp và khu công nghiệp nuôi biển còn có ý nghĩa đặc biệt về chủ quyền. Khi được xây dựng tại rìa vùng đặc quyền kinh tế, chúng sẽ như những “cột mốc sống” trên biển, khẳng định sự hiện diện và chủ quyền của Việt Nam trên phần nước rộng gấp ba lần diện tích đất liền.
Theo các chuyên gia, cần thay đổi cách đánh giá tác động môi trường. Hiện nay, Việt Nam yêu cầu doanh nghiệp, người dân tự lập báo cáo đánh giá tác động môi trường dù chưa được cấp phép, chưa triển khai nuôi trồng, dẫn đến nhiều bất cập, trong khi đây là một hoạt động khoa học phức tạp. Ở nhiều nước, chính cơ quan quản lý nhà nước mới là đơn vị thực hiện nghiên cứu, xác định tải trọng môi trường của từng vùng biển rồi phân bổ hợp lý cho các đơn vị nuôi trồng. Vì vậy, cần ban hành các tiêu chuẩn và quy chuẩn cụ thể về tác động môi trường trong canh tác biển, tránh đẩy gánh nặng này lên vai người dân.
Cần đẩy mạnh khoa học công nghệ, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Hiện nay, Việt Nam chưa có chương trình đào tạo kỹ sư chuyên về nuôi trồng thủy sản công nghiệp trên biển. Do đó, cần sớm đầu tư cho nghiên cứu, chuyển đổi số, đào tạo nhân lực và đổi mới sáng tạo. Một trong những giải pháp được chuyên gia nhấn mạnh là hoàn thiện hệ thống quản lý. Hiện nay chúng ta đang quản lý lĩnh vực này rất lỏng lẻo theo hệ hành chính, trong khi canh tác biển là lĩnh vực kỹ thuật đòi hỏi có tiêu chuẩn, quy chuẩn cụ thể để quản lý thực tế…/.
PHAN HUÝNH
Bình luận