Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 23/11/2024 17:11
Thứ tư, 27/12/2023 13:12
TMO - Tỉnh An Giang triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động về nguồn nước cho các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong mọi tình huống. Bảo đảm phân bổ, điều hòa tài nguyên nước một cách công bằng, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả gắn với bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên nước.
Nguồn tài nguyên nước mặt của An Giang tồn tại chủ yếu là dạng nước ngọt ở các sông, hồ và các vùng đất ngập nước. Nguồn nước ngọt dồi dào từ 02 con sông lớn chảy qua địa phận tỉnh là sông Tiền (dài 80 km) và sông Hậu (dài 100 km). Ngoài các sông lớn như sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Nao, sông Bình Di và sông Châu Đốc, An Giang còn có hệ thống kênh, rạch với mật độ sông ngòi thuộc nhóm cao nhất trong các tỉnh ĐBSCL. Các kênh, rạch, hồ, búng tự nhiên hoặc nhân tạo nằm rãi rác trên khắp nơi trong tỉnh tạo nên mạng lưới giao thông, thủy lợi của tỉnh.
Nguồn nước dưới đất hiện nay ở An Giang chưa được khai thác nhiều ở quy mô công nghiệp. Theo số liệu điều tra của Sở TN&MT cùng các Phòng TN&MT từ các huyện/thị xã/thành phố trên địa bàn tỉnh, khai thác và sử dụng nước mặt là chủ yếu, chiếm khoảng 98% tổng lượng nước đã khai thác. Nước ngầm đã được sử dụng khoảng 47% trữ lượng nước ngầm của toàn tỉnh.
Tỉnh An Giang triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động về nguồn nước cho các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong mọi tình huống.
An Giang là tỉnh có sản lượng lúa lớn nhất vùng ĐBSCL, với sản lượng đạt trên 3,5 triệu tấn lúa/năm. Nhu cầu sử dụng nước cho trồng trọt của tỉnh với tổng lưu lượng nước mặt khoảng 13.800.000 m3 /ngày.đêm, chiếm 97% và lưu lượng nước ngầm khoảng 470.000 m3 /ngày.đêm, chiếm 3%. Các huyện khai thác nước sử dụng cho mục đích trồng trọt lớn nhất gồm Tri Tôn, Thoại Sơn, Châu Phú, Châu Thành, Phú Tân. Nguồn nước sử dụng nước cho chăn nuôi trên địa bàn tỉnh An Giang với lưu lượng nước mặt khoảng 15.000 m3 /ngày.đêm, chiếm 83% và lưu lượng nước ngầm khoảng 3.000 m3 /ngày.đêm, chiếm 17%.
Hiện trạng sử dụng nước mặt cho mục đích công nghiệp trên địa bàn tỉnh cao hơn nhu cầu sử dụng nước ngầm. Cụ thể: lưu lượng nước mặt khoảng 52.133 m3 /ngày.đêm, chiếm tới 95% và lưu lượng nước ngầm 2.500 m3 /ngày.đêm, chỉ chiếm 5%. Hiện trạng sử dụng nước mặt cho mục đích du lịch trên địa bàn tỉnh cao hơn nhu cầu sử dụng nước ngầm. Cụ thể: Lưu lượng nước mặt khoảng 130 m3 /ngày.đêm, chiếm tới 84% và lưu lượng nước ngầm khoảng 25 m3 /ngày.đêm, chỉ chiếm 16%. Ngoài việc phục vụ cho sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp và du lịch, nguồn nước còn phục vụ cho các nhu cầu khác như: vệ sinh các lò giết mổ gia súc, tưới đường... Nguồn nước sử dụng cho nhu cầu khác bao gồm cả nước mặt và nước ngầm, trong đó nước mặt được sử dụng phổ biến hơn chiếm hơn 99%, nguồn nước ngầm chỉ chiếm dưới 1%.
Trước nhu cầu sử dụng nguồn nước đang ngày càng gia tăng, tỉnh An Giang đặt mục tiêu bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia trên địa bàn tỉnh là ưu tiên hàng đầu, tài nguyên nước phải được phát triển bền vững trên cơ sở quản lý thống nhất quản lý về tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh và trên toàn quốc, theo lưu vực sông, thích ứng với BĐKH, do cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước chịu trách nhiệm điều phối chung. Đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia trên địa bàn tỉnh, chủ động về nguồn nước cho các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong mọi tình huống.
Bảo đảm phân bổ, điều hòa tài nguyên nước một cách công bằng, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả gắn với bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên nước nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước và tác hại do nước gây ra và hướng tới quản trị ngành nước trên cơ sở chuyển đổi số. Đáp ứng yêu cầu quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông Cửu Long và thích ứng với BĐKH.
Cùng với việc triển khai đồng bộ các giải pháp, tỉnh An Giang hướng tới triển khai hiệu quả nhiệm vụ phân vùng chức năng nguồn nước, qua đó góp phần đảm bảo nước cho phát triển kinh tế-xã hội tại từng vùng. Dựa trên các yếu tố về điều kiện tự nhiên, nguồn nước, ranh giới hành chính và cách thức định cư, mật độ dân cư, nhu cầu sử dụng nước và tình hình phát triển tài nguyên nước, đặc biệt là gắn với sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh trong thời kỳ quy hoạch, đề xuất phân vùng chức năng nguồn nước của tỉnh An Giang theo 3 vùng sinh thái.
Địa phương này thực hiện phân vùng chức năng nguồn nước để đáp ứng nhu cầu sử dụng cho từng khu vực.
Trong đó Vùng 1 - vùng Bảy Núi bao gồm thị xã Tịnh Biên và huyện Tri Tôn. Nguồn nước lấy từ kênh Vĩnh Tế, kênh Tám Ngàn, kênh Tha La, kênh Trà Sư có chức năng cung cấp nước cung cấp nước tưới, sinh hoạt và phục vụ du lịch, tiếp nhận nước thải. Vùng 2 - vùng thuộc một phần Tứ giác Long Xuyên: gồm các huyện/ thành phố Châu Đốc, Long Xuyên, Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn. Nguồn nước lấy từ sông Hậu, kênh Rạch Giá - Long Xuyên, kênh Vịnh Tre, kênh Vĩnh Tế và các rạch nội đồng, có chức năng cung cấp nước tưới, sinh hoạt, NTTS, công nghiệp và điều tiết một phần dòng chảy, tiêu thoát nước, tiêu thoát lũ, tiếp nhận nước thải và điều hòa khí hậu.
Vùng 3 - lưu vực sông Tiền, sông Hậu: dọc theo sông Hậu, bao gồm: khu vực huyện An Phú và TX. Tân Châu: nguồn nước lấy từ sông Hậu, kênh Vĩnh Xương, kênh 7 xã, kênh Xáng, kênh Vĩnh An và các kênh rạch nội đồng được sử dụng với mục đích: cung cấp nước tưới, sinh hoạt, NTTS và công nghiệp; khu vực kẹp giữa sông Hậu, sông Tiền, sông Vàm Nao thuộc huyện Chợ Mới, Phú Tân: nguồn nước lấy từ Sông Tiền (đoạn sông Cái Vừng), sông Hậu, Sông Vàm Nao, kênh Thần Nông, kênh Long Điền AB và các kênh rạch nội đồng có chức năng cung cấp nước tưới, sinh hoạt, NTTS, công nghiệp và điều tiết một phần dòng chảy, tiêu thoát nước, tiêu thoát lũ, tiếp nhận nước thải và điều hòa khí hậu.
Trong mọi trường hợp, ưu tiên đảm bảo cấp nước cho sinh hoạt; nguồn nước mặt là nguồn cung cấp chủ yếu phục vụ các ngành, phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh, các vùng, lưu vực sông; đối với các địa bàn thuộc khu vực khan hiếm nước, khó tiếp cận nguồn nước mặt thì khuyến khích tăng cường sử dụng nguồn nước mưa, giải pháp trữ nước mưa, nước mặt, cải tạo hệ thống thủy lợi. Dựa vào nguyên tắc phân bồ tài nguyên nước, nguồn nước của các sông ngòi, kênh rạch trên địa bàn tỉnh An Giang được phân bổ trong trường hợp bình thường theo thứ tự: Cấp nước 100% cho sinh hoạt (đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng nước trong mọi trường hợp); Cấp nước 100% cho công nghiệp và dịch vụ; Cấp nước 100% cho chăn nuôi, NTTS; Cung cấp 100% nước tưới trong nông nghiệp; Duy trì lượng dòng chảy tối thiểu trên các sông, ngòi, kênh rạch để có thể đẩy mặn vào mùa khô, đảm bảo nguồn nước không bị nhiễm mặn trong tương lai làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác.
Nguồn nước của các sông ngòi, kênh rạch trên địa bàn tỉnh An Giang được phân bổ trong trường hợp hạn hán, thiếu nước theo thứ tự như sau: Cấp nước 100% cho sinh hoạt (đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng nước trong mọi trường hợp); Cung cấp nước 100% cho công nghiệp, dịch vụ, du lịch; Cấp nước 100% cho chăn nuôi, NTTS; Cung cấp 80% nước tưới trong nông nghiệp; Cấp nước 100% cho chăn nuôi, NTTS; Cung cấp 80% nước tưới trong nông nghiệp.
Dự báo của ngành chức năng cho thấy nhu cầu khai thác nước trên địa bàn tỉnh An Giang đến năm 2030 khoảng 15,3 triệu m3 /ng.đ. Trong đó, phân bổ cho các nhanh như sau: ngành trồng trọt 12,3 triệu m3 /ng.đ, ngành chăn nuôi 26.578 m3 /ng.đ, ngành thủy sản 8.801 m3 /ng.đ, ngành công nghiệp 26.368 m3 /ng.đ, ngành du lịch 2,6 triệu m3 /ng. đ và phục vụ sinh hoạt 253.546 m3 /ng.đ. Tỉnh An Giang đã và đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước và mùa khô, thừa nước vào mùa lũ, giải pháp hữu hiệu nhằm đảm bảo lượng nước dự phòng cấp nước sinh hoạt chính là trữ nước vào mùa lũ, và không gian trữ nước chính là các khu hệ sinh thái đất ngập nước có không gian tích trữ hàng chục tỷ khối nước ngọt, kết hợp phòng cháy chữa cháy, bảo tồn đa dạng sinh học và điều tiết cân bằng sinh thái.
Trong thời kỳ 2021-2030, xác định nguồn nước dự phòng để cấp nước sinh hoạt cụ thể như sau: Khu đất ngập nước rừng tràm Trà Sư có tổng diện tích là 1.050ha: Đây là nguồn dự phòng nước cho sinh hoạt, diện tích trữ nước quy hoạch đến năm 2030 là 118 km2 với trữ lượng nước là 236 triệu m3 Khu đất ngập nước rừng tram Tân Tuyến (Tri Tôn) có tổng diện tích là 500ha. Đây là nguồn dự phòng nước cho sinh hoạt, diện tích trữ nước quy hoạch đến năm 2030 là 15 km2 với trữ lượng nước là 30 triệu m3. Đối với các khu vực khan hiếm nước, cụ thể ở TX.Tịnh Biên và huyện Tri Tôn, một số công trình hồ chứa được dự kiến xây dựng nhằm đảm bảo lượng nước dự phòng cấp cho sinh hoạt và các hoạt động thiết yếu. Cụ thể với quy mô 21 hồ chứa, trong đó, thị xã Tịnh Biên 14 hồ chứa và huyện Tri Tôn 7 hồ chứa.
Nguồn nước dưới đất tại An Giang cũng được khai thác, sử dụng cho mục đích sinh hoạt, tuy nhiên, hướng khai thác sử dụng nước ngầm trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới là nên hạn chế tối đa việc khai thác nhỏ lẻ theo quy mô gia đình vì rất khó kiểm soát về mặt chất lượng và rất khó quản lý phòng ngừa nguy cơ gây ô nhiễm nước ngầm. Giai đoạn từ này đến 2030, tỉnh An Giang tiếp tục triển khai hệ thống giám sát tài nguyên nước và khai thác, sử dụng nước trong đó bao gồm các điểm quan trắc nước mặt và các điểm quan trắc nước dưới đất.
Mạnh Dũng
Bình luận