Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 23/11/2024 22:11
Thứ hai, 15/04/2024 05:04
TMO - Việt Nam hướng tới mục tiêu phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia từng bước hiện đại, đồng bộ, đạt trình độ ngang bằng với các nước phát triển trong khu vực châu Á và thế giới; có khả năng tích hợp, lồng ghép, kết nối, chia sẻ với mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia và mạng lưới trạm khí tượng thủy văn toàn cầu.
Thông tin từ Tổng cục Khí tượng Thủy văn, những năm qua, hệ thống các trạm quan trắc tự động được nâng lên đáng kể về số lượng. Ngành Khí tượng Thủy văn đã ưu tiên phát triển mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn tự động theo hướng hiện đại, đồng bộ thông qua các dự án đầu tư sử dụng ngân sách nhà nước hàng năm. Việc phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn tự động thường được ưu tiên cho các khu vực có mật độ trạm còn thưa, thường xuyên xảy ra thiên tai nhằm cung cấp kịp thời số liệu quan trắc thời gian thực phục vụ công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn. Các trạm khí tượng, thủy văn và đo mưa tự động đã được đầu tư trong những năm qua góp phần cung cấp nguồn số liệu tương đối lớn và kịp thời phục vụ công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn tự động với công nghệ hiện đại, việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao thực hiện chuyển giao công nghệ và đồng hành trong việc duy trì hoạt động thường xuyên, ổn định cho các trạm còn khó khăn do chưa có cơ chế đặc thù cho các đối tượng này. Bên cạnh đó, trang thiết bị hiện đại điện tử hoạt động trong môi trường thời tiết đặc thù như Việt Nam sẽ có tuổi thọ kém, cần sự giám sát kiểm tra và thay thế thường xuyên linh kiện. Đa số các trạm được đặt trên khu vực đồng bẳng, hoặc những nơi giao thông đi lại thuận tiện. Rất ít trạm hoặc thậm chí là không có trên các khu vực vùng sâu, vùng xa, khu vực núi cao, đặc biệt là nguồn số liệu trên biển.
Dưới tác động của biến đổi khí hậu nhiều hiện tượng thiên tai khắc nghiệt có nguồn gốc khí tượng thủy văn (KTTV) có xu hướng gia tăng cả về cường độ và tần suất, đã gây ra những hậu quả thiệt hại nghiêm trọng cho Việt Nam. Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch các mạng lưới trạm quan trắc tài nguyên môi trường, trong đó có mạng lưới trạm quan trắc KTTV, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ký Quyết định số 289/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch mạng lưới trạm KTTV quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Mục tiêu tổng quát nhằm phát triển mạng lưới trạm KTTV quốc gia từng bước hiện đại, đồng bộ, đạt trình độ ngang bằng với các nước phát triển trong khu vực châu Á và thế giới; có khả năng tích hợp, lồng ghép, kết nối, chia sẻ với mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia và mạng lưới trạm KTTV toàn cầu, hệ thống quan trắc chuyên dùng của các ngành, đáp ứng nhu cầu thông tin, dữ liệu, nâng cao chất lượng công tác dự báo, cảnh báo KTTV bảo đảm tính kịp thời, độ tin cậy, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Quy hoạch phấn đấu đến năm 2025, mật độ trạm bình quân trên toàn mạng lưới đạt mức ngang bằng với các nước phát triển khu vực Đông Nam Á (khí tượng bề mặt đạt 1.100 km2/trạm; trạm đo mưa độc lập 121 km2/trạm; bức xạ 21.000 km2/trạm; định vị sét 15.000 km2/trạm; thủy văn 1.520 km2/trạm/lưu vực; hải văn 112 km/trạm dọc theo bờ biển, ra đa biển 250 km/trạm dọc theo bờ biển); tỷ lệ tự động hóa trên toàn mạng lưới trạm đạt trên 40% đối với trạm khí tượng bề mặt; 50% đối với trạm quan trắc mực nước; 100% đối với các trạm đo mưa độc lập; 20% đối với các trạm đo lưu lượng nước.
Việt Nam hướng tới mục tiêu phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia từng bước hiện đại, đồng bộ (Ảnh minh họa).
Đến năm 2030, mật độ bình quân trên toàn mạng lưới đạt mức ngang bằng với các nước phát triển khu vực châu Á (khí tượng bề mặt đạt 840 km2/trạm, đo mưa độc lập 80 km2/trạm, bức xạ 18.000 km2/trạm, định vị sét 14.000 km2/trạm, ô zôn - bức xạ cực tím 82.000 km2/trạm, thủy văn 650 km2/trạm/lưu vực, hải văn 70 km/trạm dọc theo bờ biển, ra đa biển 200 km/trạm dọc theo bờ biển, trạm phao 650km/trạm dọc theo bờ biển); tỷ lệ tự động hóa trên toàn mạng lưới trạm đạt trên 95% đối với các trạm khí tượng, trạm đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao, tối thiểu 40% đối với các trạm đo lưu lượng.
Nâng cấp và hiện đại hóa các phòng thí nghiệm, hệ thống kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo khí tượng thủy văn; hiện đại hóa hệ thống thông tin, dữ liệu và chuyển đổi số ngành khí tượng thủy văn. Tiếp cận, nghiên cứu một số loại hình quan trắc mới: trạm quan trắc trên các phương tiện di động như máy bay trinh sát khí tượng, tàu biển, vệ tinh khí tượng và viễn thám, tên lửa khí tượng, thiết bị không người lái và các công nghệ, thiết bị quan trắc hiện đại khác.
Tầm nhìn đến năm 2050, mật độ trạm khí tượng thủy văn tự động ngang bằng với các nước phát triển trên thế giới với tổng số trạm khí tượng thủy văn đến năm 2050 là 5.886 trạm. Chuyển đổi hầu hết các trạm khí tượng thủy văn sang tự động hoàn toàn theo mô hình mạng lưới trạm khí tượng thủy văn hiện đại của các nước phát triển. Nghiên cứu và đưa vào thử nghiệm một số loại hình quan trắc mới: trạm quan trắc trên các phương tiện di động như máy bay trinh sát khí tượng, tàu biển, vệ tinh khí tượng và viễn thám, tên lửa khí tượng, thiết bị không người lái và các công nghệ, thiết bị quan trắc hiện đại khác.
Theo phương án phát triển, mạng lưới trạm KTTV quốc gia, bao gồm: trạm khí tượng bề mặt, trạm khí tượng trên cao, trạm ra đa thời tiết, trạm khí tượng nông nghiệp, trạm thủy văn, trạm hải văn, trạm đo mưa, trạm định vị sét và một số loại trạm chuyên đề khác. Trạm khí tượng bề mặt, thủy văn, hải văn được phân định thành trạm cơ bản và trạm phổ thông. Quy hoạch mạng lưới trạm KTTV quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 sẽ thúc đẩy ngành KTTV phát triển đột phá, từ đó mang lại những thông tin dự báo chính xác, kịp thời để xây dựng kế hoạch phòng, chống thiên tai nhanh chóng trong điều kiện thời tiết cực đoan, ứng phó với biến đổi khí hậu đang ngày càng phức tạp.
Kim Anh
Bình luận