Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 29/03/2025 08:03
Thứ tư, 12/02/2025 11:02
TMO - Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhấn mạnh quan điểm đầu tư cho tiềm lực khoa học và công nghệ hạt nhân phải được ưu tiên đi trước, trang bị công nghệ hiện đại, tiên tiến, đồng bộ với phát triển nhân lực chất lượng cao, phù hợp với xu hướng phát triển trên thế giới và yêu cầu thực tiễn của Việt Nam.
Quyết định 245/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhấn mạnh rõ mục tiêu tổng quát phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử đến năm 2030 là hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách và cơ quan quản lý Nhà nước về năng lượng nguyên tử được hoàn thiện phù hợp với thông lệ quốc tế; hệ thống các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng, đào tạo trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử được quy hoạch tinh gọn, nâng cấp.
Bên cạnh đó, một số dự án trọng điểm đã được phê duyệt triển khai đúng tiến độ; một số lĩnh vực khoa học, công nghệ và ứng dụng năng lượng nguyên tử có thế mạnh vươn lên đạt trình độ tiên tiến trong khu vực; các hoạt động ứng dụng bức xạ, đồng vị phóng xạ được triển khai rộng rãi, hiệu quả...
Thủ tướng yêu cầu khẩn trương hoàn thiện và phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân quốc gia để phục vụ triển khai Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận và tiếp tục nghiên cứu, triển khai Chương trình phát triển điện hạt nhân quốc gia; nghiên cứu, xây dựng định hướng đẩy mạnh thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng phóng xạ phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Mục tiêu tầm nhìn đến năm 2050, ứng dụng bức xạ, đồng vị phóng xạ và phát triển điện hạt nhân có đóng góp quan trọng và hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân; trình độ khoa học và công nghệ hạt nhân và nhiều lĩnh vực ứng dụng năng lượng nguyên tử ngang bằng với mức trung bình của các quốc gia phát triển...
Cụ thể với nhiệm vụ phát triển ứng dụng bức xạ và đồng vị trong ngành tài nguyên và môi trường hướng tới mục tiêu đến năm 2030 phát triển ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong quan trắc, dự báo khí tượng thủy văn; điều tra cơ bản tài nguyên nước, địa chất và khoáng sản; bảo vệ môi trường; ứng phó với biến đổi khí hậu. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị và đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về ứng dụng kỹ thuật bức xạ và kỹ thuật đồng vị trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường cho các cơ sở nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng theo hướng đồng bộ, hiện đại.
Tầm nhìn đến năm 2050: Làm chủ và ứng dụng rộng rãi kỹ thuật hạt nhân tiên tiến trong nghiên cứu, quan trắc khí tượng, thủy văn, tài nguyên nước, bảo vệ môi trường và axít hóa đại dương.Ứng dụng phương pháp chụp ảnh Muon (Muon tomography) trong lĩnh vực địa chất khoáng sản, tài nguyên nước và các lĩnh vực khác. Ứng dụng công nghệ bức xạ xử lý một số loại chất thải gây ô nhiễm môi trường từ hoạt động sản xuất và đời sống. Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu phát triển ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong ngành tài nguyên và môi trường, đặc biệt là môi trường biển. Đánh giá, làm rõ trữ lượng, chất lượng và các điều kiện cần thiết đối với quặng phóng xạ để khai thác thương mại.
Cụ thể đối với lĩnh vực Khí tượng, thủy văn: Đến năm 2030 Phát triển ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và bức xạ trong quan trắc, dự báo khí tượng thủy văn; ứng dụng kỹ thuật neutron tia vũ trụ quan trắc độ ẩm đất tại một số trạm quan trắc khí tượng thủy văn.
(Ảnh minh họa).
Trong lĩnh vực tài nguyên nước: Ứng dụng kỹ thuật đồng vị trong xác định tuổi, nguồn gốc hình thành, trữ lượng, nguồn bổ cập, khả năng bổ cập và sự vận động của nước dưới đất; thiết lập các trạm quan trắc đồng vị bên trong nguồn nước tại các sông lớn ở Việt Nam.
Đối với lĩnh vực Địa chất, khoáng sản: Ứng dụng hiệu quả kỹ thuật đồng vị và kỹ thuật hạt nhân trong điều tra địa chất, cấu trúc địa chất, đánh giá, thăm dò khoáng sản phóng xạ, khoáng sản có chứa phóng xạ, đất hiếm, địa nhiệt, phân tích các loại mẫu địa chất; nghiên cứu điều tra, quan trắc các khu vực có nguy cơ xảy ra tai biến địa chất; xác định đặc điểm một số cấu trúc địa chất có tiềm năng lưu giữ nước dưới đất, lưu giữ CO2, chôn lấp các chất độc hại, phóng xạ.
Trong lĩnh vực Bảo vệ môi trường: Tiếp tục quan trắc thường xuyên môi trường nền phóng xạ tự nhiên và nhân tạo; ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong quan trắc môi trường các mỏ khoáng sản có nguy cơ phát thải phóng xạ; xây dựng bản đồ hiện trạng môi trường phóng xạ phục vụ phát triển kinh tế xã hội; ứng dụng kỹ thuật mô phỏng để đánh giá phát tán phóng xạ trong môi trường không khí và biển từ nhà máy điện hạt nhân, ưu tiên phục vụ triển khai Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận; ứng dụng kỹ thuật đồng vị bền nghiên cứu đánh giá ô nhiễm nước mặt, nước ngầm, bồi lắng trầm tích hồ, bồi xói cửa sông và ven biển.
Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong việc phân tích và đo lường chính xác lượng phát thải khí nhà kính; ứng dụng kỹ thuật đồng vị bền để nghiên cứu biến đổi khí hậu. Bổ sung, hoàn thiện chức năng nghiên cứu, đào tạo nhân lực về năng lượng nguyên tử cho các cơ sở nghiên cứu, đào tạo hiện có; xây dựng các chương trình, học phần đào tạo sử dụng kỹ thuật hạt nhân trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường trên cơ sở đó đầu tư bổ sung, nâng cấp đồng bộ cơ sở hạ tầng kỹ thuật và nhân lực cần thiết;
Đầu tư, nâng cấp phòng thí nghiệm phục vụ phân tích mẫu đồng vị phóng xạ nhân tạo, tự nhiên trong môi trường đất, nước, không khí theo hướng đồng bộ, hiện đại; đầu tư trang thiết bị, nguồn nhân lực để bảo đảm yêu cầu chất lượng, hiệu quả đối với các đơn vị thực hiện công tác điều tra địa chất, khoáng sản, quan trắc khí tượng thủy văn, tài nguyên nước, môi trường phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Để hoàn thành các mục tiêu trên cần tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học, liên doanh liên kết giữa các cơ sở bức xạ và cơ sở tiến hành công việc bức xạ, các viện nghiên cứu và các trường đại học phục vụ phát triển nguồn nhân lực, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, ứng dụng có hiệu quả các kết quả nghiên cứu vào quá trình sản xuất kinh doanh của các cơ sở, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; phát huy tối đa hiệu quả của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia trong việc hỗ trợ hoạt động khoa học công nghệ của ngành năng lượng nguyên tử; tăng ngân sách cho nghiên cứu khoa học công nghệ, cung cấp và bảo lãnh tín dụng cho việc ứng dụng công nghệ mới; xây dựng cơ chế khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước tạo ra, xác lập và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Đầu tư nghiên cứu, nhập khẩu công nghệ, tiếp nhận và phát triển công nghệ chuyển giao nhằm sử dụng thành thạo và ứng dụng hiệu quả kỹ thuật bức xạ và hạt nhân. Đối với các lĩnh vực trọng điểm, xây dựng cơ chế chính sách đặc thù và xem xét hỗ trợ vốn phát triển ứng dụng. Phát triển hệ thống các phòng thí nghiệm chuẩn quốc gia, trung tâm tư vấn chuyển giao công nghệ, bảo dưỡng, sửa chữa và kiểm định, hiệu chuẩn thiết bị bức xạ và thiết bị ghi đo bức xạ tại các địa phương; xây dựng mới các cơ sở nghiên cứu, phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế thuộc Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân.../.
Đức Hải
Bình luận