Hotline: 0941068156
Thứ ba, 09/12/2025 04:12
Thứ hai, 08/12/2025 12:12
TMO - Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến, đột phá (AI, dữ liệu lớn, IoT) nhằm hỗ trợ công tác phục hồi, tái tạo, quan trắc và bảo vệ tài nguyên - môi trường biển, đảo, quan trắc và cảnh báo thiên tai, biến đổi khí hậu... là một trong những pháp quan trọng để khai thác hiệu quả lợi thế, phát triển bền vững kinh tế biển.
Việt Nam sở hữu đường bờ biển dài 3.260km, hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ và khoảng 1 triệu km² vùng đặc quyền kinh tế trên biển, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đa dạng các loại hình kinh tế biển như khai thác – nuôi trồng thủy sản, du lịch, năng lượng tái tạo, vận tải và dịch vụ hàng hải.
Trong 156 quốc gia có biển trên thế giới, Việt Nam đứng thứ 27 và là nước có diện tích ven biển lớn trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam là một trong 12 quốc gia có vịnh biển đẹp nhất thế giới với vịnh Hạ Long và vịnh Nha Trang. Bên cạnh đó, những di tích lịch sử-văn hóa, những phong tục tập quán, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực… đậm sắc màu miền biển cũng trở thành lợi thế để phát triển bền vững du lịch biển, đảo; tạo lợi thế cạnh tranh cho du lịch Việt Nam trên bản đồ du lịch quốc tế.
Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam tập trung vào xây dựng kinh tế biển xanh, kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo tồn đa dạng sinh học, giảm thiểu ô nhiễm và thích ứng với biến đổi khí hậu. Các ngành ưu tiên là du lịch, dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, năng lượng tái tạo, nuôi trồng và khai thác hải sản, khai thác dầu khí.
Để thúc đẩy kinh tế biển, trong những năm qua, kết quả nghiên cứu từ các Chương trình khoa học, công nghệ biển cấp quốc gia và cấp bộ trong quản lý biển, hải đảo có nhiều đóng góp quan trọng, là nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế biển theo hướng bền vững. Điển hình như chương trình Khoa học và công nghệ về quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo giai đoạn 2016-2020 đã dự thảo các quy định về cơ chế, chính sách để thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
Đề tài đã góp phần đưa ra các nguyên tắc, phương pháp, bộ tiêu chí lồng ghép các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; xác lập hành lang bảo vệ bờ biển; phân loại tài nguyên hải đảo… Kết quả nghiên cứu của chương trình đã đề xuất các công nghệ, phương pháp, mô hình tính toán ứng dụng trong điều tra cơ bản, kiểm soát tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo; giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu; khắc phục các sự cố môi trường và thiên tai trên biển…

Nghiên cứu phát triển công nghệ xanh, năng lượng tái tạo phục vụ kinh tế biển là nhiệm vụ quan trọng.
Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính là đột phá để Việt Nam khai thác hiệu quả tiềm năng đại dương, đồng thời bảo vệ chủ quyền biển đảo. Chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành được xem là định hướng quan trọng phát triển kinh tế biển bền vững.
Kế hoạch nhằm cụ thể hóa cam kết tự nguyện của Việt Nam tại Hội nghị Đại dương Liên hợp quốc lần thứ ba (UNOC-3) ngày 12/6/2025 thành các nội dung nhiệm vụ khoa học và công nghệ thiết thực, có khả năng đo lường, đồng thời tăng cường chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều kiện, tình hình thực tiễn của Bộ để bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế biển.
Bộ Khoa học và Công nghệ xác định việc phát triển khoa học và công nghệ biển làm nền tảng cho tiếp thu, làm chủ công nghệ tiên tiến là nhiệm vụ quan trọng. Theo đó, triển tập trung nghiên cứu cơ bản và ứng dụng về hệ sinh thái, sinh học biển, tai biến thiên nhiên (bão, sóng thần, động đất); ứng dụng công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn, Internet vạn vật (IoT) trong quan trắc, phục hồi tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và ứng phó biến đổi khí hậu;
Nghiên cứu phát triển công nghệ xanh, năng lượng tái tạo phục vụ kinh tế biển, công nghệ kiểm soát và xử lý ô nhiễm; đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo trong khai thác, nuôi trồng, dịch vụ biển theo hướng xanh và bền vững.
Bên cạnh đó, cần thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, tăng cường hợp tác với các đối tác chiến lược; lồng ghép mục tiêu nghiên cứu biển vào các cơ chế song phương, đa phương với các đối tác như Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, UNESCO/IOC, EU… Thúc đẩy ngoại giao khoa học, nâng cao vị thế Việt Nam trong các sáng kiến toàn cầu về đại dương. Thúc đẩy vai trò của ủy ban Hải dương học liên Chính phủ Việt Nam (IOC VN) trong việc nâng cao hiểu biết và hợp tác nghiên cứu về đại dương, giảm thiểu rủi ro thiên tai, và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đẩy mạnh chuyển đổi số trong khoa học và công nghệ biển; phát triển đội ngũ nhà khoa học, nhất là nhà khoa học trẻ qua các chương trình tài trợ, hỗ trợ của Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia; Đào tạo và bồi dưỡng nhân lực số cho khoa học biển: tổ chức các khóa tập huấn về khoa học dữ liệu, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo ứng dụng trong nghiên cứu biển; hỗ trợ các nhóm nghiên cứu liên ngành gắn kết giữa viện nghiên cứu và trường đại học./.
Trần Hà
Bình luận